….
Ái Nhân là bút danh của nhà thơ tên thật Nguyễn Văn Khâm (hay Nguyễn Thành Khâm). Ông còn có thêm tên: Nguyễn Thành, Nguyễn Lương và được anh em trong kháng chiến gọi là Thần Hòa Bình (Theo nhà thơ Hà Thanh Trúc) do tính tình nhân hậu của ông. . Ái Nhân sinh năm 1913 tại làng Tân Quới, quận Trà Ôn, Cần Thơ (nay thuộc tỉnh Vĩnh Long). Nguyễn Thành Khâm là cán bộ kháng chiến hai thời kỳ hoạt động trong địa bàn TP Cần Thơ (nay thuộc Vĩnh Long) sau đó lên Sài Gòn. Sau giải phóng, ông làm Trưởng phòng Luật sư tỉnh Vĩnh Long.. Ái Nhân nguyên là hội viên của hội Nhà văn Thành phố Cần Thơ, và đã mất năm 2013 . Tác phẩm: - Giải thưởng Truyện ngắn “Tàn nhẫn” (1962) của nhật báo Tiếng chuông (Sài Gòn) do Đinh Văn Khai làm chủ bút. - Thuyền và bến (Thơ,2010), NXB Văn nghệ. - Thơ in chung với nhiều tác giả trong tuyển tập thơ văn “Cây bằng lăng trổ bông”, Hội VHNT Tỉnh Cần Thơ ấn hành. - Hương thời gian (với nhiều tác giả) I, II, IV, VI} - Sông nước Trà Mơn do nhà thơ Nguyễn Hoàng Triều biên tập - Có mặt trong tập Điểm thơ - Bài thơ “Người em gái ra tù” được Ngũ Lang chọn bình trong tập thơ “Lời tự tình mùa thu” NL (NXB Văn nghệ-2004) và trong tập tiểu luận “Những nét đan thanh” NL ( NXB Văn nghệ-2008). Bài thơ “Đằng sau thơ giã biệt” được Nguyễn Thanh phổ thành ca khúc – 2002. - Nhà thơ Ái Nhân được nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Bích giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp văn chương trên nhật báo Nông nghiệp số….ngày… |
Nhà thơ Ái Nhân tên thật là Nguyễn Thành Khâm( Sáu Khâm) xuất thân từ một gia đình lao động lúc đó làm nghề bán thuốc với thương hiệu “Nhà thuốc Hay” – tại đầu vàm kênh ông Nghệ. Chứng kiến cảnh đô hộ của giặc pháp và bè lũ tay sai, nhà thơ cùng các anh em trong gia đình: Bảy Chiếu, Tám Chỉ, Mười Nghiệp… sớm tham gia cách mạng. Riêng Ái Nhân, vì năng nổ xuất đầu lộ diện hoạt động nổi bật trên chính trường địa phương nên thực dân và nhóm giáo phái phản động biết mặt và đặc biệt thoeo dõi. Nhà thơ phải thoát ly, hoạt động xa gia đình trong địa bàn thành phố Cần Thơ, Ô Môn, Sa Đéc, Sài Gòn, Dù rất nghiêm túc, kỹ luật trong công tác chính trị, nhà thơ vẫn chắt chiu giờ phút quí hiếm còn lại để dành cho văn chương vốn đã chiếm một không gian rõ nét trong tâm hồn mình. Truyện ngắn “Tàn nhẫn” đoạt giải nhất của báo Tiếng Chuông (1962) đã mang dấu ấn tư tưởng và năng khiếu văn nghệ buổi đầu của Ái Nhân, Tấm lòng vị tha, giàu lòng thương người hòa quyện với một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế phóng khoáng khiến hồn thơ Ái Nhân dễ rung động và lên tiếng trước mọi tình huống không gian…
Môi trường gần gũi với nhà thơ ngay từ lúc còn ấu thơ là gia đình. Cha mẹ cưu mang, sanh thành con cái nên ân tình phụ mẫu của nhà thơ rất sâu đậm. Ái Nhân nhớ mẹ da diết, thương mẹ tuổi cao, mắt mờ còn phải sống trơ trọi vẫn phải khóc thương con trong cảnh tù đày: Chạnh niềm nhớ mẹ cảnh bơ vơ…/Chắc mẹ giờ đây mắt đã mòn. (Trong tù nhớ mẹ). Lời thơ Ái Nhân dung dị, không tỉa gọt, thể hiện tính hồn nhiên của con người đôn hậu. Nhà thơ thương cha với công ơn như non Thái không gì sánh nổi. Tác giả suy nghĩ, trong đời mỗi người chỉ có một cha, một mẹ, nếu không may cha mẹ bị mất sớm thì con cái không sao tìm lại được: Bởi vì chỉ một cha thôi/Bởi vì chỉ một mẹ thời sinh ra (Ơn nghĩa sinh thành).
Với người thơ Ái Nhân, thể hiện sự tận tụy, tình yêu nồng nàn đối với con cũng là dịp tác giả cảm nhận lại được sự hy sinh và lòng yêu thương con của cha mẹ đối với mình: Con hiền đâu sợ những ngày tuổi cao/Nuôi con nào ngại gian lao (Nuôi con). Với bè bạn, đồng chí, càng ân tình chung thủy. (Tôi-Anh, Nhớ Hoàng Phong Linh) Nhà thơ không sao ngăn được xúc động khi gặp lại người đồng chí ngày trước của mình, giữa trưa hè nắng đổ “để đấu trần” lầm lũi tìm ghi được bảy trăm tên những đồng đội đã hy sinh của mình trong suốt ba mươi năm bằng cách đọc từng tấm mộ bia tại nghĩa trang thành phố. Viết và sổ cầm tay…/Săm soi từng mộ bia…/Chút tình cùng đồng đội (Chút tình cùng đồng đội).
Về tình yêu, Ái Nhân đã thể hiện một tình cảm cao đẹp đặc biệt vì nó là một hợp thể giữa tình yêu đôi lứa và tình đồng chí. Bài thơ “Người em gái ra tù” có những vần thơ cảm
động, khá hay về thi tứ có thể gây xúc động cho người đọc mà không cần phải đòi hỏi thêm ở nhà thơ về cấu trúc yếu tố nghệ thuật kinh điển. Nơi đây, tác giả đã khéo léo dìu người đọc đến những ý thơ khá mới lạ qua bối cảnh tiễn đưa đầy luyến lưu bịn rịn giữa hai người bạn tù kẻ được trả tự do sắp ra về, người thì còn phải ở lại nơi tù ngục tối tăm. “Anh ở em về, ai nhớ ai/Chắc là thương nhớ cả về hai” . Bài thơ “Đằng sau thơ giã biệt” (Nguyễn Thanh đã phổ nhạc – năm 2002) có những câu dễ lay được lòng người đọc và gần gũi với những vần thơ tuyệt bú của Hàn Mặc Tử “Chửa gặp nhau mà đã biệt ly / Hồn anh theo bóng em đi (Hàn Mặc Tử).
Trong sáng và cao cả trên hết là tình cảm thủy chung dào dạt của Ái Nhân với Bác Hồ, vị lãnh tụ anh minh lỗi lạc của dân tộc Việt Nam. Tấm lòng của Ái Nhân với Bác trong “Một ngày không bao giờ quên” là sự hóa thân của một lý tưởng sắt son – là “mặt trời chân lý” soi đường hành động và đấu tranh suốt cả cuộc đời mình” Bác dạy chúng con rằng: thắng Mỹ…/Cá - nước quân – dân chiến đấu chung”
*
Nếu quan niệm “Văn tức là người” thì thơ, bút danh và cả cuộc đời của Ái Nhân là lăng kính phản ánh trung thực thế giới tâm tư, tình cảm và lý tưởng của nhà thơ. Đó là lòng trung kiên với cách mạng, một tâm hồn trong sáng nhân hậu. Ái Nhân không bỏ qua bất cứ một cơ hội nào để trải rộng tấm lòng yêu thương của mình ra để cùng san sẻ đau khổ, đói no cùng với đồng bào. Nhà thơ dựng kịch “ Nạn đói Bắc Trung” rồi cho trình diễn, gom tiền gởi cho nhân dân ở các nơi đang lâm nạn đói. Bà con nhiệt liệt hưởng ứng, mua vé đến xem đông nghẹt. Cũng chính trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng này, tại quê nhà, ở cương vị chủ tịch ủy ban kháng chiến xã, nhà thơ đã bình tĩnh đấu tranh với cấp lãnh đạo quân sự là anh Khương (Bộ đội anh Khương) để minh oan cho hai chị em ruột thoát khỏi tội tử hình. Họ bị tình nghi là Việt gian vì tiếp tế lương thực cho Tây. Bản thông báo giờ và địa điểm hành quyết đã được treo lên, thông báo và cảnh giác cho mọi người. Khi giờ thi hành án chết tội phạm đã gần kề, Nguyễn Thành Khâm đã nghe ngóng, tìm hiểu kỹ nơi bà con xung quanh và mạnh dạn vận động biện minh cho hai chị em khỏi phải bị chết oan chỉ vì đem mấy con vịt đi đám giỗ ở nhà người thân ở kênh Mười Thới. Phải chăng nhờ suốt đời xử sự với lòng bác ái thương người mà nhà thơ sống ung dung, khỏe mạnh, lúc nào cũng được bạn bè, đồng đội và bà con làng xóm hết lòng kính trọng yêu thương. Vượt tới ngưỡng đỉnh thượng thọ, nhà thơ Ái Nhân cứ thong dong cỡi xe đạp đi hội họp hay thăm bà con, bạn bè như một thanh niên khỏe mạnh. Hôm nay, Nhà thơ Ái Nhân đã ngấp nghé tuổi bách niên, thế mà nhà thơ Phật sống vẫn cứ vô tư, lạc quan sinh hoạt, giao lưu văn nghệ bình thường cùng bạn bè, thi khách bốn phương. Thơ và đời Ái Nhân quả thực vô cùng đằm thắm, sâu lắng một tinh thần nhân văn cao quí đáng yêu.
Xứ Trà Mơn, làng Tân Quới, vàm kinh Ông Nghệ từ hơn sáu thập kỷ qua đã bao lần mịt mùng dậy sóng lửa binh, nhưng con người và hồn thơ Ái Nhân vẫn yên bình và đôn hậu như muôn đời mặt nước sông quê…
Với tư cách là bạn đồng điệu vong niên vông coi như ruột thịt, tôi xin được âu yếm hôn lên hồn thơ đẹp của nhà thơ nhân hậu Ái Nhân !