ĐỖ TRUNG LAI
Có một cái gì nhẹ nhõm đến trong ta
Sau cánh cổng khép hờ tre trúc ấy
Thế này thôi mà thành huyền thoại
Chiều nghiêng. Ráng đỏ. Động rèm.
Bao nhiêu người đã yêu làng Sen
Nhà Bác đó, dựng trên nền đất cũ
Không có nỗi cô đơn của ngôi nhà vắng chủ
Bước hành hương gió thổi dọc miền Trung.
Như thấy lại Người thời thơ ấu xa xăm
Đêm mất nước trẻ con không ngủ nổi
Bên võng, mẫu thân ngồi dệt vải
Đọc thơ, thân phụ thức bên song.
Mẹ chưa biết vải đêm nay mẹ dệt
Có một ngày Người phát để may cờ
Những điều ước bị cuộc đời săn đuổi
Mẹ vỗ vào những tiếng thoi đưa.
Cha chưa biết thơ đêm nay cha thắp
Toả sáng rồi còn để lại tàn tro
Chưa biết mai sau thơ Người làm nên lửa
Thứ lửa cháy rồi, thì để lại Tự Do.
Huyền thoại mà sao thân thiết lạ
Ổi chín treo vàng bên lối đi
Ba gian nhà lá trong bóng lá
Cánh võng đay chùng một nét quê.
Sông suối dẫu rằng xa cách mấy
Ai muốn về nhà, xin đến đây!
![]() |
Hình ảnh bình dị và yên bình bên trong làng Sen. Ảnh Traveloka |
LỜI BÌNH
Bài thơ ghi lại cảm xúc và suy tư sau một lần đến thăm nhà Bác ở làng Sen- cái nôi sản sinh, nuôi dưỡng một con người sau này trở thành anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Chữ “về” trong tiêu đề và câu thơ kết được cân nhắc kĩ. Không phải là “thăm, đến, đến với” mà là “về, về nhà”. Nhà Bác thân thương như chính nhà ta vậy. Kết hợp nhuần nhị giữa miêu tả và bình luận, giữa quan sát ngoại vật và tự vấn, nhà thơ đã vẽ ra một cách chân thực nhất hình ảnh ngôi nhà Bác cùng những xao động, lắng đọng trong tâm hồn. Đây là những phác họa sống động, gợi cảm:
Sau cánh cổng khép hờ tre trúc ấy…
Nhà Bác đó, dựng trên nền đất cũ…
Ổi chín treo vàng bên lối đi
Ba gian nhà lá trong bóng lá
Cánh võng đay chùng một nét quê.
Nhà Bác có vẻ đẹp giản dị, mộc mạc, giống như bao ngôi nhà ở nông thôn Việt Nam thuở trước, mang “nét quê” thương mến ngàn đời. Trước cảnh ấy, cảm xúc của nhà thơ trào lên với nhiều cung bậc. Đầu tiên là cảm giác “nhẹ nhõm”: thanh thản, khoan khoái, bình yên. Sau đó là ngạc nhiên trước sự đơn sơ đến tận cùng qua các câu hỏi khẳng định: “Thế này thôi mà thành huyền thoại”, “Huyền thoại mà sao thân thiết lạ”. Cảm giác ấm áp được thể hiện gián tiếp bằng các hình ảnh: “cánh cổng khép hờ”, “Bước hành hương gió thổi dọc miền Trung” với hàm ý: có bao người đã, đang đến với ngôi nhà Bác và cánh cổng khép hờ kia vẫn sẵn sàng đợi mọi người. Hoặc phát biểu trực tiếp: “Không có nỗi cô đơn của ngôi nhà vắng chủ”. Không chỉ thế, bằng nét bút hoa mĩ, Đỗ Trung Lai đã tráng lớp son huyền ảo lên bức tranh nhà Bác: “Chiều nghiêng. Ráng đỏ. Động rèm”. Đây là dòng thơ sáu chữ duy nhất, tách thành ba câu đặc biệt vừa mang gánh nặng ngữ nghĩa vừa có giá trị tăng cường sức gợi.
Trước đây, Tố Hữu cũng có những câu thơ hay viết về nhà Bác nhưng hầu như ông có thiên hướng tô đậm vẻ trống trải, đơn sơ khiến lòng người không khỏi bùi ngùi: “Thăm lại vườn xưa, mái cỏ tranh/ Thương hàng râm bụt, luống rau xanh/ Ba gian nhà trống, nồm đưa võng/ Một chiếc giường tre, chiếu mỏng manh” (Theo chân Bác, 1970).
Nét độc đáo mang cá tính sáng tạo làm nên sức nặng của cả bài, tập trung ở ba khổ thơ 3,4,5. Đó là sự kết hợp tuyệt vời giữa quan sát thực tế với tưởng tượng, suy tưởng và liên tưởng. Từ những kỷ vật còn lưu giữ trong nhà: chiếc khung cửi dệt vải, bàn viết với bút nghiên, chiếc võng đay…, nhà thơ tưởng tượng ra cảnh sinh hoạt của gia đình Bác ngày xưa - một kiểu sinh hoạt gia đình Nho học truyền thống. “Như thấy lại Người thời thơ ấu xa xăm/ Đêm mất nước trẻ con không ngủ nổi/ Bên võng, mẫu thân ngồi dệt vải/ Đọc thơ, thân phụ thức bên song”. Trong khổ thơ ấy, ba nhân vật hiện ra với hành động và tâm trạng trong một đêm cụ thể ở hoàn cảnh đất nước chìm trong đêm trường nô lệ.
Cái tài của nhà thơ là đã gợi ra được những bế tắc, trăn trở của ba con người, những bế tắc mang tính lịch sử của thời đại bấy giờ. Ở cậu bé Nguyễn Sinh Cung, người có lòng yêu nước từ tấm bé, bế tắc ấy thể hiện qua một nghịch lý: “Đêm mất nước trẻ con không ngủ nổi”. Ở thân mẫu Bác, đó là ước mơ âm thầm: “Những điều ước bị cuộc đời săn đuổi/ Mẹ vỗ vào những tiếng thoi đưa”. “Vỗ” là một chữ đắt, đồng nghĩa với: gửi vào, truyền vào. Mơ ước tự do của người nô lệ không thể thổ lộ, chỉ gửi vào trong tiếng thoi bền bỉ. Với thân phụ Bác, đó là lòng yêu nước kín đáo ẩn giấu vào thơ. Tiếng thơ ấy nồng nàn như lửa “thắp”, tỏa sáng tâm hồn, trong bối cảnh khi đó bị coi là “quốc cấm”, chỉ lưu hành trong bóng tối và bị vùi dập. Cho nên cũng rơi vào nghịch cảnh: “Tỏa sáng rồi còn để lại tàn tro”.
Tầm vóc lớn lao vĩ đại của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là: nhờ tiếp thu truyền thống yêu nước; bằng trí tuệ, tài năng, tâm huyết, Người đã phát động toàn dân tiến hành cuộc Cách mạng giải phóng, đem lại Tự do cho dân tộc. Với kỳ tích đó, Người đã khơi thông bế tắc lịch sử, xua đi ẩn ức khổ đau của kiếp người nô lệ:
Mẹ chưa biết vải đêm nay mẹ dệt
Có một ngày Người phát để may cờ
Chưa biết mai sau thơ Người làm nên lửa
Thứ lửa cháy rồi, thì để lại Tự Do.
Lá cờ là biểu tượng Tổ quốc độc lập. “Lửa” tượng trưng cho cuộc chiến tranh cách mạng đồng thời cũng là phẩm chất thi ca của Bác.
Đỗ Trung Lai đã tìm một con đường riêng, cách diễn đạt mới mẻ, sâu sắc: Căn nhà Bác là nơi hội tụ của lòng yêu nước, bệ phóng tinh thần cho một con người sau này sẽ trở nên vĩ đại, thay đổi cả lịch sử. Tính chất “huyền thoại” mà nhà thơ khẳng định đến hai lần của ngôi nhà Bác chính là bắt nguồn từ đó.
Bình dị, thân thiết mà lớn lao, huyền ảo là hai mặt thống nhất làm nên sức hấp dẫn của ngôi nhà Bác ở làng Sen. Viết về nhà Bác đồng thời ca ngợi lãnh tụ kính yêu. Sự độc đáo trong nội dung đó được thể hiện trong bài thơ với nhiều hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, ẩn dụ. Phát huy tối đa tưởng tượng và suy tưởng, tổ chức bài thơ theo cấu trúc đối xứng, tương phản khiến cho tình ý sâu sắc, đánh thức tư duy người đọc. Bao trùm lên trên hết là tình cảm yêu quý, biết ơn đối với Bác, người thân của Bác cùng căn nhà huyền thoại. Tứ thơ bay lên trong lời mời gọi: “Sông suối dẫu rằng xa cách mấy/ Ai muốn về nhà, xin đến đây!”