Non nửa con nắng giữa chạp thì ghe bẹo cập bến Thong Dong. Đám bông Tứ thời bắt đầu trổ vàng lướt thướt mé sông. Nắng rải xuống sóng nước bưng biền những dải lụa óng ánh. Ngoại hay nói, nắng mùa này là nắng mai non. Con nắng chẳng còn gay gắt như những ngày nóng. Mùa thôi sa mưa giông. Tàn ngọn bấc đồng. Nắng non để người ta biết cạn cùng một năm mà quay về cố xứ. Đi một vòng châu thổ linh đinh đời hải hồ thì ai cũng biết canh nắng, ngóng mưa để vọng Tết. Xảng nhớ như in mấy lời thủ thỉ của ngoại khi bắt đầu biết chống chèo, gá thân mình vào đời đi bẹo. Nhưng đâu phải ai cũng biết cố xứ của mình là đâu?
Minh họa Đỗ Dũng |
Trong trí nhớ còn ít ỏi của một thằng thất học, chữ bẻ làm đôi hí hoáy được mỗi cái tên thì đã thấy quanh mình lềnh khênh là nước. Đâu chừng cũng hai chục năm trước rồi. Thoảng khi, giữa những chiều châu thổ tím thẫm hoàng hôn, ngay lòng ghe, mâm cơm chiều chỉ có hai bà cháu, Xảng lừng khừng hỏi ngoại chuyện tía má. Ngoài chợ Ngã bảy người ta đồn rân trời mấy chuyện kì cục, Xảng nghe hết, lầm lũi đi loanh quanh mấy sạp hàng rồi ba chân bốn cẳng chạy riết về lại mé sông ghe bẹo đậu. Đi như trốn. Tai còn văng vẳng mấy lời thiên hạ buông xuống. Lòng Xảng như đeo đá. Lòng Xảng chẳng thể rộng như lòng sông. Dẫu đục trong, lớn ròng, thì sông cũng có đường ra biển, hay chí ít cũng lắng đời mình thành phù sa mà bồi cho đất này xanh cây tốt trái. Nhưng ngặt nỗi, lòng Xảng đóng cục, vón lại ngay giữa tâm, một thứ gì đó chẳng thể nói được. Hỏi thì sợ ngoại buồn. Còn không hỏi thì Xảng lại đau. Lời thiên hạ như vết dao bén ngót cứa thẳng vào lòng Xảng một vết thương hở miệng. Chẳng rỉ máu ra, nhưng, kì thực là sâu hoẵm.
Lần đó, hình như cũng một ngày bấc tàn, Xảng bạo gan hỏi tía. Ngoại chỉ lên bờ. Tía đâu đó trên khắp đất này, ruổi rong đời ăn đình ngủ miễu. Xảng lí nhí hỏi má. Ngoại chỉ xuống sông. Má đâu đó xuôi dòng chín nhánh, không dạt bên lở cũng ở bên bồi. Ngoại không biết. Chỉ biết một tay ngoại nuôi mày. Đi xin bú dạo. Chạy từng cữ ăn. Thương hồ lai láng, trăm ngàn chuyện không rõ nguồn cơn, chẳng tường cớ sự. Xứ này, người ta chỉ cần sống tốt, sống tử tế đó đã là phúc phần của mình rồi. Hỏi càng nhiều thì lòng càng buồn. Cứ đem buồn mà đổ xuống châu thổ hèn chi sóng nước vỗ bạc tóc hồi nào hổng hay. Ngoại rít điếu thuốc gò. Nhả ra từng ngụm khói tròn vo. Gió từ mé sông thốc lên từng cơn buốt lòng.
*
Trăng mười sáu sáng cả khúc nhôi. Bến Thong Dong vắng ngắt. Ngoại lên bờ đi miễu. Sắp cúng Bà nên xóm giềng rủ nhau mỗi người một tay phụ trợ. Người lau chùi quét dọn. Người chợ búa bếp núc. Người gói bánh nấu đám. Xóm treo phướn từ đầu bến đến cuối triền sông. Dẫu mình chẳng gốc tích đất này, nhưng bám vào đây mà sống cũng hơn nửa đời người. Đất không bạc với mình, thì đoạn đành sao ngó lơ. Cũng từng ấy quãng đời ngoại phụ cúng miễu. Cái miễu linh thiêng chứa đựng bao nhiêu nguyện cầu của dân xứ này. Chẳng biết có ai đong đếm bao nhiêu ước mơ được phù hộ độ trì biến thành sự thật. Nhưng, ai cũng ký thác niềm tin cõi lòng mình vào Bà. Một bức tượng có gương mặt tròn trịa, hiền lành, và luôn cười. Thiên hạ khoác lên mình bức tượng áo mão, lông công, đính thêm kim sa cho lộng lẫy oai nghi. Nhang trầm cứ quyện thinh không trăm năm khảm vào lòng dân Thong Dong một nếp thiêng kính. Từ nhỏ Xảng đã theo ngoại phụ cúng miễu, từ ngày tiên kiến cho đến hậu tiễn. Chừng khi Xảng lớn, một mình đi bẹo được thì mấy ngày cúng miễu là ngoại bỏ mình Xảng lênh đênh với mớ hàng ngoài chợ Ngã bảy. Với ngoại, phụ cúng miễu là trả cái ơn nghĩa đất này đã cho nương náu và dung dưỡng cuộc đời của ngoại, đến giờ là của Xảng.
Thứ mà Xảng khoái nhất là những ngày cộ Bà. Trong tiếng trống đờn rộn ràng, Xảng được coi múa hát. Mấy đoàn hát về chầu Bà, phụng cúng hoa đăng, dâng mâm vàng bạc, rồi họ làm xiếc những trò hay ho. Tỷ như họ cho cây bông lên đỉnh mũi mà múa may quay cuồng cây bông chẳng rớt. Hay có lần họ cho luôn cả cái khạp da bò lên đầu mà đội. Đờn rao dồn dập, đôi chân họ thoăn thoắt, lời rỗi vọng vang thanh âm cầu khấn khiến đám đông coi biểu diễn hồ hởi liên hồi. Họ giỏi quá chừng. Nhưng, đời họ cũng khổ quá chừng. Đó là lần ngoại thấy Xảng liên tục khen lấy khen để mấy người hát rỗi sau đám cúng miễu. Trên chiếc ghe bập bềnh sóng nước. Câu chuyện của ngoại khiến Xảng thon thót lòng mình. Sao xứ này, đời ai cũng khổ quá vậy ngoại. Sao chuyện nào của ngoại cũng buồn thắt thẻo ruột gan. Buồn hơn sóng nước châu thổ. Buồn hơn câu vọng cổ xứ mình. Cái buồn lởn vởn trong đầu, âm ba thắt dạ, năm ba ngày sau mới nguôi ngoai.
Bận đó nghe ngoại kể, Xảng làm thinh không nói gì, đợi tiếng ngoại thở đều trong cơn ngủ lại sức sau mấy ngày phụ miễu, Xảng nhẹ chân ra ngoài mũi lái. Đêm trên đất chín sông luôn là những đêm tịch liêu. Tiếng cúm núm gọi bầy xao xác cả trời khuya. Ngoại kể làm Xảng nhớ khoảnh khắc thằng An xòe bàn tay ra đếm vân. Nó hét lên tận mười cái. Vậy là nó mừng rơn. Cơn mừng khấp khởi trong ánh mắt. Nhưng chưa kịp vui trọn thì tuần lễ sau nó chạy dọc triền sông, tìm về cuối dòng mà ngồi tấm tức khóc. Bụi bông tứ thời um tùm như một chỗ cất giấu nhiều nỗi riêng của nó. Xảng có hỏi gì nó cũng lắc đầu. Mười vân tay tím bầm. Vai nó nhiều vết đỏ. Xảng vạch áo nó lên, những vết roi mây hằn dấu. Sông nghe nó khóc. Sông nghe Xảng thở. Sông xứ này muôn đời lặng im ôm vào lòng mình những vết thương của đám con châu thổ. Sông không biết nói, nên mọi câu chuyện đều được bí mật.
Xảng ngồi giữa lòng ghe sắp lại mớ hàng mới bổ hồi chiều trên chợ để sớm mơi xuôi ghe bẹo khắp các con kinh rạch bán Tết cho những người vùng sâu tuốt trong bưng. Mũi ghe bỗng chòng chành như có ai bước xuống. Ngẩng lên, Xảng thấy một nhân ảnh khác lạ. Mái tóc dài, khuôn mặt thon gọn, nước da trắng ngần. Cái giọng cất lên gọi tên Xảng mà như ai miết dây đờn lên cung líu, nghe quắn quíu cả vùng minh mông nước. Xảng ngừng tay, chưng hửng nhìn. Trong ánh đèn măng-sông rọi sáng lòng ghe, Xảng ngờ ngợ một người đã quen nhưng nay sao lạ quá chừng.
Lòng ghe có thêm một người ngồi xuống. Đêm châu thổ trắng trời tâm tư.
*
Ngoại không có chồng. Má sinh ra từ chuyến ăn sương của mùa vạn chài đi rong đồng lũ, trên khúc sông nào đó ở miệt Hậu. Đất này mỗi năm có một mùa lũ bát ngát nổi nênh trên khắp các cánh đồng, con sông, đoạn kinh, khúc lóng. Nước bốn bề bủa vây. Không trồng được thứ gì. Không nuôi được thứ gì. Cánh đàn bà ở nhà giữ gà giữ vịt trên các sàn cao vừa được kê. Cánh đàn ông thả ghe về các vùng nước lớn mà sống quãng đời vạn chài. Tức là bỏ nông làm ngư. Những con cá, con tôm trên vùng nước rộng theo thượng nguồn tràn về sẽ nuôi đời dân xứ này qua cơn ngập ngụa. Cũng có những ghe đủ đầy cả vợ con, đó là những bà vợ sợ thói phong lưu của chồng mà quyết chí đi theo, còn đa phần sóng nước trùng điệp hiểm nguy mấy ông đàn ông còn thấp thỏm huống chi phận đàn bà. Mùa vạn chài cũng là mùa thổi đèn. Thú vui tao nhã huê tình của cánh trai tráng độc thân mới đi rong cùng sóng nước.
Nước lớn tận năm tháng trời. Trai tráng đang tuổi sung sức vẫy vùng ban sáng thì đêm về túm tụm với rượu và niềm đơn lẻ. Cái cường dương hừng hực theo từng dòng rượu rót vào dạ mình càng lan từng thớ thịt, từng mạch máu lại càng buốt nóng và căng phồng lên. Ruột đốt lên ngọn lửa tưng tức ngay chính giữa đôi chân săn chắc. Ghe đèn dầu sinh ra từ nỗi tưng tức đó.
Đêm thâm u mắc màn đen phủ các đồng nước lớn. Sương bắt đầu tỏa mở. Gió bắt đầu miên miết da thịt. Lạnh buốt bên ngoài, nhưng nóng ran bên trong. Ghe đèn dầu bắt đầu đi tới những chiếc ghe của dân vạn chài. Chầm chậm. Nhẹ nhàng mái chèo. Trước ghe, cái đèn dầu loe loét sáng. Thứ ánh sáng vàng vọt đủ để mấy thằng con trai đang mang trong mình nỗi tưng tức ngó được mặt mũi cô lái. Cũng có khi ánh mắt quét từ đầu đến chân, rồi mới ngoắt tay ra dấu. Ghe đèn dầu cặp vào cạnh ghe vạn chài. Chiếc đèn dầu trên ghe sẽ được thổi tắt. Sóng nước chòng chành. Nỗi tưng tức cũng chòng chành. Chỉ có tiếng người là không chòng chành. Nó phát ra thành âm thanh rõ rệt. Thứ âm thanh như tiếng rền rĩ. Cũng có khi là tiếng thở dốc. Đôi lúc là tiếng cười man dại. Sương ve vuốt đêm cho thôi những ẩn ức. Đêm mơn trớn sương cho thỏa nỗi khát khao. Cứ vậy những chuyến ăn sương trở thành một thứ không thể thiếu của mùa vạn chài.
Nhưng, những chiếc ghe đèn dầu từ đâu đến và sẽ về đâu, dân vạn chài thường không thể biết. Gà chưa kịp gáy thì những chiếc đèn dầu lại được thắp sáng mà trôi ngược về phía mênh mông hun hút. Biết làm chi? Hỏi làm gì? Trai tứ chiếng, gái giang hồ, cũng chỉ là một cuộc phong tình. Người cần mua, kẻ cần bán. Thứ họ nhận về là tình và tiền, sòng phẳng như một cuộc mua bán cả hai bên đều đồng thuận. Chỉ là đôi khi sóng nước nghiệt ngã sắp xếp cuộc tao ngộ tưởng là một đêm lại hóa ra thao thiết cả một đời.
Ngoại nói đó là lỗi của mình. Dân vạn chài rời đồng lũ, cô gái có bớt đỏ lan hết nửa mặt, trên cái ghe đèn dầu, mới biết mình đã cấn bầu. Lần đầu tiên Xảng thấy những ngụm khói trắng từ miệng ngoại bay ra đứt quãng thành vệt không còn tròn vo. Xảng năm đó mười tám, cao lớn phổng phao, da vàng phù sa, mắt buồn như châu thổ mùa hạn nứt toạc đất. Chẳng còn những cánh đồng lũ, chẳng ai đi vạn chài, ghe đèn dầu đã thôi không trôi nổi trên khắp bưng biền. Mà Xảng cũng thôi không còn hỏi về tía má. Xảng sợ. Một nỗi sợ chung của những đứa con thương hồ.
*
Chính lễ cộ Bà, miễu tấp nập người. Gánh hát nổi trống lên. Tiếng đờn cò rao bản Nam Xuân. Cô bóng bắt đầu múa bông cho lễ khai tràng, câu rỗi thanh thoát vang xa. “Lạy linh Bà ngự chốn miễu trung, cho nữ xứ đáo lai hiến võ.” Bước chân uyển chuyển, tay ra bộ điêu luyện. Xiêm áo lấp lánh. Đám đông bên dưới vỗ tay rần rần. Khác mọi năm, Xảng hay chọn đứng phía cuối bởi biết cái dáng dong dỏng cao của mình sẽ che hết tầm mắt người nếu mình chen lên đầu. Nhưng hôm nay, Xảng nhất quyết đi sớm, tranh ngay hàng đầu, ngồi xuống dưới đất, chọn ngay chính giữa để xem bóng rỗi. Chẳng biết vì sao, chỉ biết vừa xong phiên chợ nổi ngoài sông cái là Xảng tức tốc cho ghe về bến Thong Dong, để kịp coi lễ cộ bà từ chiều. Lòng Xảng chộn rộn điều khó tả.
Sau màn dâng bông khai tràng là tới màn múa mâm chầu mời để cung thỉnh Bà. Lời rỗi lồng lộng trong không gian im bặt và những cái chắp tay cúi lạy của mọi người. “Bà Kim sanh bạc hóa vàng. Bà Thủy sanh nước dẫy đầy biển khơi. Bà Hỏa sanh ngọn lửa hồng. Bà Thổ sanh đất đầy đồng nơi đây. Bà Mộc sanh cội hóa cây. Năm Bà hóa phép tới đây hợp cùng.” Lạ lùng là bao nhiêu năm trường đã nghe, đã thuộc nhưng lần đầu tiên Xảng mấp máy môi mình hát theo. Mâm ngũ sắc tung lên cao, cô bóng xoay người một tay hứng lấy rồi lại đội đầu. Khắp sân miễu rộn ràng từng tràng vỗ tay. Cô bóng khuỵu gối, đi xuyến từ sân tế vào sân chầu rồi thượng mâm lên bàn chứng. Mâm ngũ sắc dâng lên, miễu Ngũ Hành vang hồi trống liên hùng thanh. Cô bóng lại đi ngựa. Chân trái xuống trụ, chân phải co lên tạo thế phi nước kiệu. Cứ vậy mà sân miễu dòng người hò reo đón Bà về. Bà về ban tài phát lộc, độ cho quốc thái dân an, cho làng xóm được mùa, cho cây sai trái, cho gái trai nên đôi vợ chồng.
Nhưng, cô bóng cầu cho bá tánh chứ đời cô ai cầu cho đặng. Ngoại dặn đừng ghẹo cô bóng. Đời họ khổ quá chừng. Cái nghiệp bóng rỗi nó quàng vào thân phận của những người đàn ông theo như lệnh trời. Trời ban hay trời đày thì chẳng ai thấu được. Trăm cô bóng hát rỗi của khắp miệt Cửu Long này cũng linh đinh phận mình như mấy dề lục bình miên di đời lữ thứ. Họ có cha sanh mẹ đẻ nhưng không phải ai cũng nhận. Họ có nhà cửa đàng hoàng nhưng đâu phải ai cũng được về. Như căn kiếp phần số đời mình. Họ cũng bình thường hệt bao con người sanh ra trong cõi này, nhưng một ngày căn trổ thì họ lại vứt hết đi theo cái nghiệp bóng rỗi. Đi là đi luôn, biền biệt mất hút, ngày họ về thì cũng như bấc tàn mùa, heo may lả ngọn.
Mấy mươi năm qua, cúng miễu luôn là gánh cũ, duy chỉ có năm nay ông thủ từ phải mời gánh mới. Gánh cũ nghe đâu đã rã bởi ông bầu mới xuôi tay về với đất. Nhưng, có lẽ như định mệnh của con người ta, lòng vòng với dâu bể phận mình, trăm ngàn sóng nước đổ ra biển cả, cũng từ biển lại khiến xui dòng trôi quay về cùng sông. Biến thiên thời vận luôn có những hạnh ngộ lạ kì. Đó là đêm khuya khoắt của ngày cộ Bà, ngoại dẫn một người lạ về trên ghe bẹo trong sự ngỡ ngàng của Xảng.
Hai lăm tháng chạp, gió Tết khe khẽ lạnh. Đêm âm trầm trôi. Trăng vắt mảnh lơ lửng giữa trời cô liêu. Lòng sông lặng nước mà lòng người dậy sóng.
*
Người bến Thong Dong chẳng thể biết vì sao thằng An bỏ nhà đi. Ba làm chủ tịch xã, má làm hiệu trưởng trường độc nhất ở cái xã này. Nhà gạch xây hai tầng bề thế. Khi mà đám trẻ nghèo của bến còn lội bộ trên mấy quãng đường đê trầy trật đôi chân đến lớp thì sáng sớm nó đã được má chở trên chiếc xe Dream láng coóng chạy vèo qua mặt. Trong đám cù bơ cù bất lăn lóc với bưng biền này thì nó sướng hết phần thiên hạ. Nó học giỏi, ngoan, hiền có tiếng của bến. Đùng một cái, ba má nó chạy khắp triền sông để đi kiếm. Có người nói hay nó tự tử mất tiêu rồi, chờ ba ngày xác trương sình to lên thì tự khắc nổi trên sóng nước, khỏi lặn ngụp chi cho mệt. Cũng có người nói nó chạy về phía đầu sông, nhảy xe đò lên thành phố. Sống trong nhung lụa nhưng bí bách quá với cái hà khắc ăn học nề nếp của ba má nó thì ai mà sống nổi. Biết đâu chừng nó bị bắt cóc bán qua Miên. Trời bên đó giờ dụ người qua mấy sòng bài dữ thần. Nhất là đám trẻ non nớt, nghe bùi tai là theo ngay. Mặc cho thiên hạ xì xào, ba má nó vẫn hớt hải chạy khắp nơi. Một ngày, hai ngày, rồi ba ngày trôi qua không có cái xác nào nổi lên trên khúc sông này. Mấy ông công an xuống hỏi từng người một, hỏi luôn mấy đám bạn học, hỏi tới đâu người ta lắc đầu tới đó. Nó nào giờ có được ra ngoài đường đâu mà chơi với ai. Cái nhà đó giàu nên cổng kín tường cao, ai dám mon men.
Xảng nghe tin cũng phóng lên bờ, chạy về cái quán cà phê cóc gần nhà thằng An mà hóng hớt. Chắc chắn không ai biết thằng An ở đâu. Đêm nó lững thững về lại ghe bẹo nằm thủ thỉ với ngoại. Nó cầu mong đời thằng An như chính cái tên của nó. Cái tên của con người ta, luôn kèm theo một ước nguyện nào đó của chính người đặt. Cũng có khi như ý, cũng có khi trớt quớt. Đôi lúc xứ này, người ta đặt cái tên vô nghĩa. Đi học cô giáo kêu lên bảng dò bài, nghe cái tên mình mà muốn độn thổ. Tỷ như nó nè. Cái tên lạ lùng. Hồi đó ai đặt vậy ngoại? Nó quay sang ngoại, điếu thuốc gò vẫn ngậm chặt trên môi bà, những ngọn khói trắng tỏa ra trên gương mặt hằn nếp gấp của thời gian.
Ngoại vẫn ngồi yên trên mũi lái, ngó con nước đêm đen huyền đặc quánh. Hồi má mày đem về, để giữa lòng ghe, phủi tay cái rột, con tui, cháu bà. Bà thương thì giữ, không thì đem lên miễu cho ông từ. Chứ tui còn phải đi lấy chồng. Đời tui khổ là bởi làm con của bà. Nên tui lỡ dại lần này thì bà nuôi nó đi. Cho đời nó không khổ như tui. Đó là lần cuối má mày về cái ghe này. Lúc đó tao chỉ biết kêu trời. La-dô người ta đang phát bài cải lương về cuộc đời của bà hoàng hậu hai chồng, bả gánh vác cả bên nước, bên tình trên đôi vai. Bả hát điệu xế xảng nức nở hỏi thiên hạ: “Trời ơi, bão táp mưa sa, một Dương Vân Nga sao chống đỡ nổi sơn hà.” Câu hát của ngoại đứt quãng. Giọng ngoại đổ hột như nhựa đường mới trải. Hình như có tiếng nức lên, nghèn nghẹn cổ họng. Ngoại quên khóc lâu rồi. Từ ngày người quê cũ nói ngoại là con dạ xoa đầu thai đuổi ngoại rời xóm long đong đời viễn xứ.
Té ra cái tên của Xảng nó cũng hay. Hay quá chừng hay luôn chớ. Điệu xế xảng trong cải lương tuồng nào cũng có. Bởi cải lương buồn thí mồ. Buồn như tiếng khóc gào nức nở của dân miệt bưng. Nhưng, có đứa không chịu nổi cái khổ đó, nó không gào lên theo điệu xế xảng. Nó quyết bỏ đi. Thoát khỏi cái giam cầm của số phận.
Xảng lục lại trong cái túi, sợi dây niệt đỏ mà thằng An đưa mình hôm nó ngồi khóc ở vàm sông xanh lá tứ thời. Thằng An bảo lên chùa ngoài thị trấn cầu bình an, sư thầy làm phép cho nó, nó xin thêm một cái cho Xảng. Nhớ đeo vào tay cho linh nghiệm. Xảng cầm sợi dây đỏ, đeo vào tay mình. Có bình an hay không thì chẳng biết. Nhưng, thâm tâm nó tin, sẽ có ngày nó thấy thằng bạn học của mình. Lúc đó An đã sống thật vui, người không một vết đòn roi. Miệng thằng An sẽ cười. Nó cười đẹp và sáng trưng. Sáng như trăng rằm vậy đó.
*
Ông khách lạ ngồi xuống lòng ghe, đêm khuya lắc lơ, tiếng cúm núm khàn đặc, kêu ran cả khúc sông. Mấy con cúm núm sống cả một đời chắc để gọi bầy. Ngoại sống cả một đời chắc để chờ má quay về. Hay Xảng sống một đời với câu hỏi tía mình là ai? Nhưng, một đời đôi khi dài quá, có lúc chết mất tiêu, mồ xanh cỏ người ta cũng không gặp được người mình muốn. Cũng có khi, ông trời xui cảnh lá lai, chỉ nửa đời người là phải đối diện với người mình mong ngóng. Mà phàm những người đó là người đã bỏ rơi mình.
Ông khách lạ cất giọng, the thé. Đôi môi ổng xăm đỏ chót. Chân mày tỉa tót hình lá liễu. Ổng búi tóc lên thành cục. Bận đồ bộ bông hoa sặc sỡ. Mười đầu ngón tay sơn màu sặc sỡ. Lớp phấn son trên mặt còn chưa kịp tẩy trang. Ổng ban nãy khoác xiêm y lộng lẫy diễn cảnh dâng rượu bằng đầu ngoài sân đình. Xảng nhớ, nhưng ổng đến ghe làm gì? Dẫu trong cái hình hài cô bóng thì Xảng vẫn biết ổng còn là đàn ông.
Ngoại chỉ tay về phía Xảng. Nó đó, thằng nhỏ của ba chục năm trước. Thằng nhỏ con cô. Hồi đó cô bóng còn cái tên Hùng mạnh mẽ đàn ông, mới ngoài hai mươi, con trai chủ tiệm bán đồ điện tử to nhất thị trấn này. Má nó cũng đẹp nức tiếng vùng này. Cặp kè từ tuổi học trò cho đến lớn thì một ngày Hùng phát hiện mình đắm đuối những cú đi xuyến dâng bông, thuộc làu làu câu rỗi dù chỉ nghe qua một lần. Hùng bắt đầu chạy từ đình này qua miễu nọ theo gánh. Tía Hùng nhìn ra căn nguyên nên giăng cái bẫy để Hùng say và má nó vào phòng. Chỉ cần có bầu là Hùng hết theo gánh. Đàn ông phải ra đàn ông. Thứ bóng gió lai căng trai không ra trai gái không ra gái làm nhục cha mẹ. Thứ hoa không phấn có làm con gái cũng không có trứng mà đẻ. Phải để nó làm chồng, làm cha thì nó hết cái mê muội múa may. Má Xảng ham cái căn nhà gạch ngoài thị trấn mà ông chủ tiệm điện tử hứa cho. Ham một cuộc đổi đời làm dâu nhà giàu mà nhắm mắt gật đầu. Mọi thứ diễn ra êm ru. Cho đến khi có bầu là lúc ông bà chủ tiệm điện làm lễ rước linh đình. Con bà ghe bẹo nghèo nàn được hỏi cưới rình rang nhất thị trấn. Kệ, miễn nó đẹp, miễn nó mang trong mình dòng dõi của nhà chủ tiệm điện thì bỏ qua hết mấy cái rườm rà môn đăng này nọ. Nhưng cái bỏ qua lớn nhất chính là bởi má Xảng chấp nhận một cuộc chơi với người có căn nguyên bóng rỗi.
Trong cái thế bó buộc đó người đàn ông đành ngậm ngùi làm tròn trách nhiệm. Nhưng đâu có ai ngờ, Xảng đẻ ra lại khác xa dòng dõi của nhà chủ tiệm điện. Tóc xoăn tít, da đen trùi trụi, cái mũi tẹt lét, cặp mắt mí lót tròn như hai hạt nhãn. Thiên hạ nói như lai Khơ-me. Hoặc cũng y hệt cái đám thương hồ dầu dãi nắng mưa ngoài chợ nổi Ngã bảy. Ông chủ tiệm điện bán tín bán nghi cho người dò la khắp chợ. Xảng mới đầy tháng thì má nó bị bắt đứng đối diện với thằng bán bếp cà ràng từ miệt Xà Lôn vùng Bảy Núi. Màn tra khảo bắt đầu. Đòn roi túi bụi. Ngực sữa tức thấm ướt hết áo. Má nó nhận. Thằng bán bếp cà ràng cũng nhận khi mười đầu ngón tay đã bị kẹp sắt làm cho rướm máu. Ông chủ tiệm gật đầu tha, cho thằng bếp cà ràng mớ tiền về xứ. Và biến mất khỏi cái chợ này, nếu không muốn ba ngày sau xác quay đầu về hướng Bảy Núi.
Còn má nó, ôm đồ về lại cái ghe bẹo. Đừng bao giờ để ông bà chủ tiệm đồ điện thấy mặt ở thị trấn. Thứ con của đĩ thì cũng là điếm. Trong đêm kinh hoàng đó, ba nó vẫn dửng dưng ôm nó vào lòng, ngồi nhìn tất thảy mọi chuyện bày ra trước mắt. Một thời gian sau, Hùng theo gánh hát mặc tía má khóc lóc dọa nạt, biệt xứ từ đó, ngót chừng cũng ngần ấy năm theo số tuổi của Xảng. Nhưng, cũng chính là ổng, sau này hằng tháng gửi tiền phụ ngoại nuôi Xảng. Một ngày làm con, cũng là duyên số, nên ổng vẫn nhận làm con. Chỉ mong đời cô bóng của ổng sau này có người để tang mình, đó đã là mãn nguyện. Lần đầu tiên cô bóng Hồng dẫn gánh hát của mình tạo dựng về xứ. Người đầu tiên muốn gặp, kì thực, lại là đứa con chẳng phải máu mủ mà mình thương nhớ bấy lâu nay.
Xảng lảo đảo đi về phía mũi ghe. Thấy đời mình chênh chao qua từng ngọn gió Tết. Gió chi mà nghiệt, thổi con người ta sum vầy mùa đoàn viên, chỉ riêng nó là mải miết tìm mùa xuân của chính mình.
*
Nhưng ngoại không làm đĩ, cái ghe đèn dầu chỉ một lần thổi tắt, bởi cái khát khao được yêu, được có một đứa con hủ hỉ tuổi già của cô gái mặt quỷ năm xưa bị cả làng đuổi đi. Mùa đồng lũ năm đó là lần đầu tiên ngoại cho ghe về xóm vạn chài. Mãi sau này, chẳng ai biết gã chài mùa nước đó, ngay chính ngoại cũng không dám nhìn mặt. Ngoại nhắm mắt, trong cơn ba đào sóng dập dồn vào thân thể mình. Hợp tan cuộc người cũng là trò dâu bể. Dân vạn chài đến rồi đi cũng là chuyến phong tình. Chỉ thương là ngoại không thể tường mình đời mình cho đứa con gái mình khát khao và bất chấp để có được. Con hoang rơi ra từ sóng nước châu thổ, thì chỗ nào mà ưng bụng cho làm dâu. Đứa con gái khóc cười với sông rồi thả rong đời mình theo bồi lở xứ này. Sóng nước đọa đày đời con người ta miên miết cả cuộc đời. Đến nỗi chấp nhận lấy một thằng bóng cô mà tui còn bị trả về nè. Đời má ăn sương thì đời con nương vào bá tánh.
Đó là bận người con gái nửa lạ, nửa quen ghé xuống lòng ghe kể nó nghe. An bây giờ là Giang. Cuộc trốn chạy đổi lấy mười lăm năm xa quê đằng đẵng nhiều nỗi mình lẫn nỗi đời. An tìm được cô bóng Hồng đang neo phận mình trên Sài Gòn, trong cái đình ở bến Bình Đông. Vậy là hai con người chung quê mà biệt xứ nương náu cùng nhau để sống trọn vẹn với căn duyên bóng cô. Mày còn đẹp, còn trẻ, qua Thái đi. Qua bên đó sống cuộc đời là chính mình. Một đóa hoa đúng nghĩa dẫu không phấn, nhưng thời này rồi, cứ tin hoa không phấn vẫn có ngày sanh sôi nảy nở. Ông trời hay lắm, không bằng cách này, cũng bằng cách khác, ổng luôn có đức hiếu sinh. Cô bóng Hồng nói vậy rồi đưa con nhỏ lên chuyến bay để bỏ cốt đàn ông lại một nước khác. Cô bóng Hồng già rồi, nhưng An còn trẻ, đâu chứa nổi mình trong cái hình hài chẳng phải là mình. Hai tháng sau quay về là một con bé Giang trong ngần xuân thì. Hai bàn tay vẫn mười ngón hoa với điệu múa dâng bông khai tràng, với câu rỗi thanh thoát vút bay lên trên cả phận mình.
Nhưng con Giang bây giờ phải cám ơn bà ghe bẹo đã bao bọc che chở nó cho hành trình đêm đó. Chẳng ai biết trong mớ hàng đang xuôi về thị trấn trên cái ghe nghèo nàn lại đang chứa chấp một thằng con ông chủ tịch xã. Kể cả thằng Xảng cũng không hề biết. Chỉ ngoại biết bởi cái ánh mắt mê đắm say sưa nhìn mấy cô bóng về cúng miễu bao lần khiến ngoại hiểu được giông gió sẽ phủ lên đời thằng nhỏ xinh xắn này. Ngoại là người đưa nó số điện thoại của cô bóng Hồng. Đi đi bây, đi để mà còn làm người. Sống với chính mình là một nỗi mong cầu không phải ai cũng dám. Nhưng không sống được thì cũng bằng như chết cả cuộc đời này rồi. Ngoại vuốt tóc thằng An và thu xếp mọi thứ.
Xảng ngồi ngẩn ngơ. Nắm cái cùm tay của cô bóng trẻ tên Giang lên rồi nhìn sợi dây niệt đỏ. Vừa vặn khớp y với sợi dây nó đeo trên tay mình. Đêm đó, cả hai ngồi mông lung bên vàm sông có bông tứ thời đang gọi Tết.
*
Bông tứ thời lạ lùng cùng một cây nhưng lại cho ra hai màu hoa. Hoa không phấn màu cam rực rỡ. Hoa vàng lại có cuống dài nhú ra đâu chừng lóng tay. Cứ vậy mà sóng nước Cửu Long vỗ sao mà khéo đáo để, đám cuống vàng sau vài đợt sóng tự khắc úp vào núm nhụy bông cam. Giản đơn mà trăm năm tứ thời cứ um tùm dọc các triền sông quê. Cũng có bận, hạn nứt đất, chẳng có con sóng nào vỗ vào lòng châu thổ, đám bông cam, bông vàng cũng tới thì đơm sắc rực rỡ. Cây tứ thời dẫu có hoa không phấn nhưng chừng gió Tết thắt thẻo ruột gan, tự khắc đời hoa cũng biết trưng trổ cái sắc màu rực rỡ. Cây cũng như người, mà người cũng như cây, chỉ một đời nên nghiệt ngã cỡ nào cũng biết sống cho mình rực rỡ.
Xảng chẳng hiểu nhiều, chẳng biết hoa không phấn như kiểu ngoại nói là gì. Xảng chỉ biết, gió Tết gọi con người ta dù bôn ba tha hương cỡ nào, dù lừng khừng nỗi niềm riêng mang ra sao thì chắc chắn vẫn hướng lòng mình về cố xứ. Chuyến về có khi hằng năm, có khi đằng đẵng chục năm, cũng có khi ngót nghét nửa cuộc người, nhưng ai rồi cũng biết, chỉ có quê mới là nơi mà mình không bao giờ bỏ được. Tỷ như cô bóng Hồng, hay con Giang. Dẫu về trong lén lút bao bận đêm giao thừa, nép mình bên đám cây lá um tùm rồi nhìn vào nhà mình. Thấy gia đình bình an là mừng vui lặng lẽ. Cái vui nó trộn cái tủi thân âm ba trong lòng tạo thành nỗi thèm sum vầy theo năm tháng, như tràng giang lớp lớp sóng.
Nhưng, có một điều, Xảng chẳng dám kể ngoại nghe, Xảng nói cô bóng Hồng, nếu năm nay chưa biết ăn Tết ở đâu thì ghé ghe bẹo này, mấy chục năm trời, tui chưa được tía má lì xì Tết. Xảng cũng biểu con Giang, giao thừa này về cái ghe bẹo chúc Tết tui đi, tui chưa bao giờ lì xì cho đứa con gái nào hết trơn đó. Xảng để dành mấy phong bao đỏ trong túi rồi. Xảng sẽ kho nồi thịt thiệt nhiều, Xảng cũng sắm thêm vài cái chén, mấy đôi đũa. Xảng làm củ kiệu gấp đôi. Xảng nấu nồi canh khổ qua tận bốn trái. Xảng tin, giao thừa này, lòng ghe sẽ có bốn người cùng ăn Tết. Nghĩ đến đoạn chúc Tết, lì xì, lên miễu thắp nhang, rồi về lại ghe ăn dưa hấu chắc vui dữ lắm!
Chưa kịp cười hết cơn vui, Xảng thấy mé vàm sông ngợp bông Tứ thời có hai bóng dáng quen thuộc xuất hiện, ngập ngừng bước lên ghe. Mới chiều ba mươi mà lòng Xảng đã giao thừa.