- Ưng à, lên bờ thôi
Tiếng mạ tha thiết cất lên rồi vụt mất khi ta lặn một hơi dài xuống tận đáy sâu của dòng sông Bạch Yến. Nước sông vây lại, vừa vặn ôm kín người ta bằng những đợt sóng dập dềnh.
Đó là lần cuối cùng ta tắm trên dòng sông. Lần cuối cùng ta được nghe tiếng mạ gọi quen thuộc mà lại thiết tha và mê đắm đến thế.
- Đó, ta giao nó lại cho hai người.
Mẹ ta đẩy ta lại phía hai người xa lạ đó một cách mạnh mẽ và kiên quyết. Ta cảm nhận được bàn tay run rẩy của người vuốt lên tóc ta đầy thương yêu nhưng ánh mắt lại mạnh mẽ vô cùng.
Không để ta kịp phản ứng, kịp chối từ, ta bị đẩy vào cuộc phong trần, bị khoác lên mình tấm áo long bào sặc sỡ, bị dìu đi giữa hai hàng thị vệ, tiến vào điện Thái Hòa để làm lễ lên ngôi hoàng đế.
Ta làm Hàm Nghi.
Ta là vua nước Nam…
![]() |
Minh họa Ngô Xuân Khôi |
*
Có tiếng nói rất khẽ:
- Xin mời!
- Đường xa quá mệt rồi…
Ta bước ra từ kiệu, người như la đà say. Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết và người đàn ông to cao dũng mãnh trong đêm đen hiện ra trước mắt cúi đầu, giọng nhỏ:
- Đức ngài đã quá mệt rồi.
- Người là… đây là đâu.
- Là Tân Sở, Thần đã đợi ngài từ mấy năm trước.
Sau này ta mới biết chủ phường săn chuyên nghề bắt hổ có đôi mắt tinh anh đêm ấy là người đã đặt viên gạch đầu tiên xây thành Tân Sở. Tân Sở là một vùng đất biệt lập với đồng bằng và xa cách với trung tâm các sở lỵ. Bao quanh bốn phía là các đỉnh núi, dãy đồi tự nhiên tạo ra như một vòng thành khép kín. Mặt phía đông hướng ra đồng bằng Triệu - Hải rất thuận lợi cho việc giao lưu với miền xuôi. Các mặt kia đều có những con đường thượng đạo dẫn qua Lào và ra Bắc phòng khi rút lui, vì vậy mà khi bắt đầu binh biến các quan: Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Lệ, Đặng Duy Cát, hàng nghìn binh lính, dân phu đã đào đắp miệt mài suốt ngày đêm. Chính từ công việc đào đất, trồng tre để xây dựng căn cứ, phía ngoài có hàng rào cọc nhọn và hệ thống hào bao quanh, bốn mặt thành được trồng tre ngà dày đặc gồm bốn lớp cách nhau hàng chục mét, giữa các lớp tre là thành đắp bằng đất, bên trong thành ngoại có nhà cửa, trại lính, kho tàng, bãi tập trận của voi ngựa. Ở các cửa và góc thành đều có các đồn lính, ụ súng canh giữ, bảo vệ thành nội.
Tất cả đã sẵn sàng cho những cuộc biến binh.
*
Chiều Tân Sở mịt mù sương. Chỉ mới chớm sang chiều thôi mà khắp nơi ở sơn phòng này đều nhuốm một màu bảng lảng. Sương trôi là đà trên mặt đất thoắt hiện thoắt ẩn như chiêm bao, như hư ảo, lơ đãng khiến lòng ta chùng lại bồn chồn. Nỗi nhớ nhà như sóng duềnh lên khiến ta rưng rưng khóc. 13 tuổi lên ngôi. 14 tuổi, ngày Kinh thành đổ máu, ta theo Tôn Thất Thuyết vào chốn rừng sâu núi hiểm ròng rã mấy năm trời. Ở đó có những đội săn, những phường binh đã đợi sẵn ta từ bao giờ. Họ đồng lòng cùng ta theo đuổi một mục đích cao thượng, chống lại mũi giày lê dương đang ngày đêm như một con bạch tuộc khổng lồ tung vòi đi khắp phía mới khiến ta nhận ra sức mạnh đó chính là lòng yêu nước. Lòng yêu nước mạnh mẽ như măng tre được trồng kín ở sơn phòng Tân Sở và ta, trong lúc tao loạn này đang được bảo vệ trong lớp lớp phòng thủ dày đặc như chông ấy.
Bao năm bôn ba, ta đã rèn rũa được mình. Ta hiểu được cách đánh của nhà binh. Hiểu được sức mạnh của sự đoàn kết và hiểu được thế giặc để có thể tấn công hay rút lui bảo toàn lực lượng, chuẩn bị cho những đợt phản công tiêu diệt địch. Bởi thế như hôm nay, ở bên ô cửa sổ thư phòng trong thành Tân Sở này, ta phải là một con thú ẩn mình.
Có tiếng nói bất ngờ từ phía cửa khiến ta giật mình.
- Ai?
- Ra là huynh ở đây.
- Ngươi là ai?
- Cha ta bảo huynh bị bệnh trên đường đến đây nên không thể theo đoàn săn sắp tới.
Người con gái nói rồi đứng sát lại cửa sổ. Con gái chủ phường săn hình như cũng trạc tuổi ta, nét khỏe mạnh và tự nhiên của nàng như một tia nắng ấm áp.
- À!… Ta... ta chỉ bị cảm.
- Để ta bảo nhà bếp, họ sẽ làm cho huynh một bát cháo nóng. Ăn vào, vã mồ hôi huynh sẽ đỡ.
Ta ngập ngừng không thể nói ra được với người con gái đang đứng trước mặt mình ra sao vì thái độ trốn tránh đó. Nhưng dường như nàng ta đã không lưu tâm. Nàng vừa nhón chân kéo hẳn tấm rèm màu huyết dụ sang một bên vừa huyên thuyên không dứt. Trông nàng như một con chim non rộn ràng làm rạng cả buổi chiều u ám đằng đẵng của ta từ ngày này sang ngày khác.
Từ khung cửa sổ khép hờ, nàng mở cửa:
- Huynh cứ ở mãi trong căn phòng u tối này sẽ bị bệnh thêm lên.
- Đừng… đừng mở cửa… ta.
- Chẳng sao cả, ở sơn trại này, chỉ có ánh sáng và gió mới lọt được vào.
Ta sẽ sàng bước về phía ánh sáng. Bao nhiêu năm ở rừng ta cũng chỉ ở trong vòng vây của sự bảo vệ an toàn và cẩn mật. Có lúc nào được thảnh thơi một cách tự do nhìn ngắm đất trời như hôm nay.
Ta nhớ cảm xúc đó, một thứ cảm xúc vừa thân thương vừa gần gũi như khi ta ngụp xuống dòng Bạch Yến hôm nào. Từ buổi chiều đó, nàng đưa ta ra bãi tập dạy ta tập cưỡi ngựa, tập bắn tên, tập leo trèo để rèn luyện thể lực. Nàng như mẹ ta, mạnh mẽ và kiên quyết nhưng lặng lẽ và sát sao theo dõi từng bước tiến bộ của ta hằng ngày. Nó như mạch nước ngầm âm ỉ trong ta, nuôi dưỡng cả tinh thần và trí lực của ta ngày càng sáng rõ.
Nàng đã ở bên cạnh ta nhẹ nhàng như thế. Làm dịu những đau rát trong lòng ta về một sự tan hoang của một đất nước đang dần bị chiếm đoạt, bị thay máu, bị bóp chết. Nàng làm sống lại trong ta cả niềm hi vọng đã từng bị vùi lấp bởi cả những đau khổ nhọc nhằn. Nàng đã hỏi ta nhiều điều về tự do, về đấu tranh, về lòng dũng cảm, kiên cường và cả những hi sinh của những chiến sĩ trong đội quân tinh nhuệ bảo vệ Đức Hoàng thượng khiến ta suy nghĩ mãi. Và khi không còn gì để nói nữa, chúng ta ngồi lặng lẽ bên nhau. Nàng ở ngoài cửa sổ, ta ở trong khung cửa. Trầm lắng. Và khi tĩnh tại nhất có thể, ta đã ngửi thấy trong gió một mùi hương thanh khiết, ngọt ngào. Mùi hương đó, theo gió, thoảng lên như liêu trai trong những buổi tinh sương.
- Thơm quá!
- Hương hoa mai đó.
- Hương hoa mai? - Ta ngạc nhiên
- Cha gọi đây là lãnh hương.
- Lãnh hương?
- Vì hương hoa mai chỉ thực sự đến khi tĩnh lặng. Càng tĩnh lặng càng thấy hương hoa ngọt ngào như mật và nồng say như rượu.
Ta đã không thể nào quên được buổi chiều hôm đó. Buổi hôm ta thật là ta, tung tẩy tự do đi trong vườn mai cùng nàng hái lá. Buổi đó, ta kể cho nàng nghe về dòng Bạch Yến. Dịu dàng và tinh tế. Nồng nàn và say sưa. Bạch Yến của ta hiện lên trong lòng nàng là một dòng sông nên thơ như cổ tích. Và nàng kể về cha nàng. Ông chủ phường săn trong câu chuyện của nàng không phải chỉ là một kẻ võ biền mà còn là một người nghệ sĩ tinh tế bậc nhất khi trồng mai. Rồi nàng mơ về vườn mai. Mơ một ngày hết chiến chinh, nàng sẽ cùng cha tỉ mẩn, lặng lẽ làm đất. Đất thịt được cha đánh lên, phơi nỏ nắng, không để đất còn lại chút chất chua nào. Lúc đó nàng sẽ vùi hạt mai vào đấy rồi quên đi cho đến khi cây lên xanh kiêu hãnh giữa đám cỏ hoang người ta mới nhớ đến mình đã từng ươm hạt mai vào đất.
Chiến chinh buộc mọi người phải tạm quên đi bao mơ ước của mình. Ta càng phải thế bởi ta là vua nhưng ta cũng có một ước mơ của đời mình. Không ai biết rằng khi ta đặt bút viết chiếu cần vương trong đêm sương lạnh này ở Tân Sở ta đã mơ về một chiều trong vườn ngự cùng nàng ươm những giống hạt mai vàng.
![]() |
Minh họa Ngô Xuân Khôi |
*
Ta không thể ngờ rằng tối đêm ấy phải rời khỏi nơi này. Có tiếng súng nổ lên thật gần. Đệ tam Phụ chính Đại thần Tôn Thất Thuyết đã vừa cấp báo quân Pháp đã đánh chiếm Động Hải. Đường ra Bắc bị chẹn ngang. Đoàn hộ tống xa giá nhà vua phải rời đi gấp.
Ta khoác thêm tấm áo choàng rồi đi nhanh về phía cửa. Đêm sương nặng rơi như mưa trước mái hiên khiến ta bồn chồn. Lúc đó ta nửa muốn gặp nàng để nói lời từ biệt lại cũng muốn nghĩ rằng nàng đang say ngủ. Đôi má nàng màu hồng phấn. Đôi môi như nụ hồng chúm chím hé mở. Gió se sẽ thổi qua ô cửa sổ đủ thoáng để ru giấc ngủ ngon của nàng trước khi ta rời đi.
Nhưng nàng đã chờ ta ở cuối góc vườn mai đó. Mắt nàng buồn thiu. Môi nàng mím chặt như giận dỗi. Đôi tay nàng thừa thãi vặn xoắn vào nhau đến đỏ. Lúc đó ta chỉ ước được ôm lấy nàng nhưng không thể. Giống như hàng trăm ngàn băng giá trên cao xanh kia đổ xuống xung quanh nàng dày lên như một vách ngăn khiến ta không thể bước lại nàng.
Hơi thở nàng gấp gấp trong lồng ngực. Đôi môi nàng run run.
- Huynh ở Phấn Nghĩa quân hay Đoàn Kiệt quân? - Đang say sưa chợt như tỉnh ra nàng hỏi.
- Sao nàng hỏi thế? - Ta giật mình.
- Đừng giấu nữa, đêm trước, ta đã thấy cha bắc ghế, mở hòm sắc treo tận đòn tay bên trên bàn thờ xuống rồi thì thầm điều gì đó khiến mẹ ta kinh hãi. Nhìn qua khe cửa, ta thấy mẹ hết nhìn vào trong hòm sắt sơn son trang trí hình rồng ấp mây thếp vàng, có nhiều tờ sắc bằng giấy dó khổ rộng in nền hoa văn vàng nhạt. Chữ nho viết chân phương. Đó là các sắc phong mà cha ta đã cẩn thận cất giữ.
- Ta ở đội quân cơ động bảo vệ vua cùng Hội đồng phụ chính.
- Như huynh thì làm sao có thể bảo vệ được Đức Hàm Nghi?
Ta tránh nàng bằng cách vít một nhành mai đang sà lại phía cửa sổ:
- Bao giờ hết chiến chinh, về lại Huế, ta sẽ mang theo một cây mai rừng.
- Bao giờ cho hết chiến chinh?
Nàng hỏi thế rồi quay lưng bước đi sâu về phía cuối vườn. Câu hỏi đó xoáy vào ta mãi cho đến tận đêm khuya không ngủ. Ta làm được gì? Làm sao để hết chiến tranh cứ làm ta nao nức không thôi. Đứng trước sự xâm lược thì kiên quyết không khuất phục. Muốn cứu lấy sự tồn tại của đất nước thì càng không thể bị khuất phục. Nhưng ta chẳng thể nói được với nàng như thế. Làm sao ta có thể nói cho nàng biết chuyện là nàng đang ngồi trước mặt ai đây được. Dù rằng ta biết, sự cẩn thận với ta giờ cũng vô nghiệm khi trong tim ta, sự tin cẩn, niềm yêu thương gần gũi nơi nàng đã trở thành tín chỉ.
Đêm đó, trời đêm quánh sương. Ta đứng mãi phía vườn mai nhìn vào bóng tối vô định mà lòng lại mơ một giấc mơ ám ảnh mai vàng. Bao giờ hết chiến chinh, ta sẽ lại về kinh thành, cởi bỏ hoàng bào, ăn vận thanh tân như bao huynh đệ khác cùng nàng sáng sáng dạo chơi trong vườn mai. Những buổi sáng nắng xiên trong sương sớm chưa tan, những đóa mai đã bung nở hết mình. Hương hoa mai ngọt ngào quấn quýt. Và ta sẽ hôn lên đôi bàn tay nhỏ nhắn của nàng trong ngập tràn hạnh phúc.
- Đêm nay, cha ta sẽ đưa đoàn của huynh qua núi.
Nàng nói rồi lạnh lùng quay đi. Chỉ còn ta đứng lại. Sau phút trân trối hụt hẫng. Buồn thương. Ta đau đớn tột cùng khi nhận ra mùi hương mai đượm ngọt vấn vít đâu đó trong khu vườn tối sẫm đang tỏa hương thơm ngọt. Đó là mùi hương của nàng. Ta biết chắc rằng nàng đã khóc khi vừa quay lưng bước.
*
Đồi núi chập chùng.
Mây giăng nghẽn lối.
Sương sa gió thổi.
Ta đã cùng bao quân dẫm lên đó mà đi. Bàn tay ta chai sạn. Bàn chân ta cứng cỏi. Ánh mắt ta kiên cường. Sa trường nào có sá gì với quyết tâm diệt thù cứu nước.
Ta mơ về một ngày hoan ca.
Ta sẽ nắm chặt bàn tay ấy. Ta sẽ không để cho nàng chôn chặt những riêng tư trong tim như trước nữa. Buổi đó nàng đau, ta cũng đau lắm rồi. Thực lòng, hương hoa mai ngọt ngào như mật và nồng say như rượu đối với ta là nàng. Lãnh hương vấn vít cả vào trong giấc ngủ nhọc nhằn của ta trên vạn đường kinh lí khi mỗi chặng đường ta qua ta đều ươm những hạt mai vào đất như gửi gắm, như ước hẹn, như mong đợi.
Mà ngày yên bình càng xa vời xa.
*
Đoàn đạo ngự đã vượt Mai Lĩnh, lánh sang Lào, lần theo phía Tây dãy Trường Sơn vượt qua núi cao chót vót lại lội những thác nước chảy xiết, nổi bọt trắng phau. Ngày đêm không nghỉ mà người cùng ta đến được Sơn phòng cũng chỉ còn chưa đến trăm người. Nhiều người mắc bệnh tê liệt, bị bỏ lại, người chết thì chôn cất qua loa, nấm đất ấy bên đường thành mồ vô chủ.
Sơn Phòng một ngày mưa trắng trời. Hàng trăm cặp mắt ngơ ngác nhìn nước lũ từ thượng nguồn đổ về sùng sục như nhấn chìm tất cả. Đói và rét. Ý chí quyết tâm không thắng nổi cơn đói đang dội lên một lúc một cồn cào hơn. Đâu đó có tiếng thở dài, chửi bới, gào thét, điên loạn.
- Thôi đi. Mới chỉ ngần này khó khăn mà các người đã vội đầu hàng thì làm sao có thể mưu cầu việc lớn.
Tiếng hét to như con thú gầm trước cửa hang khiến tiếng ồn dần trở nên im bặt. Ta nhận ra người đàn ông quỳ gối trước mặt ta chính là cha nàng. Người dẫn đầu một đoàn người đứng chật cả phía cửa hang rộng.
- Xin hoàng thượng cho thần ở lại phò tá người.
- Ngươi...
- Trong lòng thần bây giờ chỉ còn thù hận. Quân Pháp đã lùng sục kéo đến san bằng Tân Sở. Nhà cửa ruộng vườn tiêu điều. Xác người chất cao như núi. Khi thần về đến thì tất cả chỉ còn là một đống tro tàn.
Người đàn ông nói rồi im lặng cúi mặt. Hình như bao nước mắt ông đã đổ xuống mảnh đất quê nhà rồi. Giờ chỉ còn lòng căm thù làm sức mạnh khiến ông bạt lối băng rừng tìm đến với ta giữa trùng trùng núi non hiểm trở.
Đêm đó trước ba quân, tại Ấu Sơn, ta nắm chặt tay cha nàng đầy nhuệ khí rằng ta phải biến đau thương thành thù hận để bảo vệ đất nước.
Buổi ban chiếu Cần Vương ta đã nói hào sảng như thế. Ấy vậy mà trong đêm tối tột cùng khi nghĩ về nàng, ta đã khóc. Tại sao buổi đó ta không đưa nàng đi? Tại sao buổi đó ta không thành thực với nàng khi nàng nghiêm nghị ánh mắt nhìn vào sâu mắt ta mà hỏi. Nàng đã giấu ta như một bí mật của riêng nàng. Con người ta ai cũng mang trong lòng mình những điều bí mật không thể nào tiết lộ. Cả ta, cả nàng. Khi đã đồng lòng tương ứng, lòng ta vẫn mang mãi một vết thương giấu kín sâu thẳm. Nhưng ta đã không làm được gì lúc đó. Càng không thể nói với nàng về cuộc chia tay. Buổi đó ta rời xa nàng bởi ta muốn giữ mãi hình ảnh yên bình đó. Những bông hoa cần sự yên bình mới tỏa hương, nàng cần sự yên bình mới hồn nhiên, đất nước cần sự yên bình mới phồn thịnh nên ta phải không được trốn mình. Ta rời xa nàng vì ước mong ngày trở lại.
Bây giờ làm sao ta có thể tìm được nàng? Nàng đã đi đâu? Nàng còn sống hay đã chết? Những câu hỏi tự vấn đó như trăm nghìn mũi tên bắn vào kẻ bất tài ta khi trong đầu chỉ miên man nghĩ về những điều khiến ta đau khổ nhất. Vậy mà ta đã không thể đi tìm nàng. Làm sao ta lại có thể để nàng hi sinh một cách vô ích?
Nhưng ta phải nén lại tất cả, phải vì những người tận tụy cùng ta mà nén chịu nhiều ủy khuất. Ta biết, nếu không có các nghĩa quân lòng ta cũng chỉ như con thuyền mắc cạn mà thôi. Bởi thế, vì họ ta phải sống, phải vượt qua những nỗi niềm riêng tư vì những công lao của những người hi sinh đều phải được đền đáp và ghi nhận. Và ca nàng nữa, tên của nàng cũng như các vị tướng sĩ kia sẽ được lưu danh mãi mãi.
“Để cho thành tan, nước mất, thánh thượng nhuộm cát bụi là tội của lũ hạ thần. Xin Thánh thượng yên lòng, lũ hạ thần hết sức Cần Vương dù chết cũng không từ”. Tán lý Quân vụ thống lĩnh Phan Đình Phùng đã nói như thế trong buổi lễ ban chiếu Cần Vương làm ta yên lòng.
Chiếu Cần Vương ban ra đã làm lòng người nô nức.
Thế quân như vũ bão đã làm cho thống soái De Courcy điêu đứng vội vàng họp các thống tướng Négrier, Brìere, Warnet để bàn cách đánh dẹp nghĩa quân.
*
Một ngày. Trời vừa dứt một cơn mưa xuân. Mây mù ảm đạm. Ta nằm mơ một giấc mơ lạ.
Bên con suối nhỏ ta đã gặp những cánh hoa trôi. Những cánh hoa vàng rực lấp lánh nhảy nhót theo nước chảy. Một lúc càng nhiều. Ta men theo ánh hoàng hôn chói lòa. Ngược lên núi cao. Xa tít. Hiểm trở.
Dưới bóng sáng vằng vặc ta đã nhìn thấy cả một cây mai nở hoa vàng rực rỡ. Bóng hoa vàng tươi sáng, lung linh trong nắng chiều. Ta cứ đi mãi như thế, trong trong làn hương thanh thanh dần lan lan tỏa cho đến khi gặp một ngôi nhà nhỏ nằm bên cạnh một hồ nước trong xanh như ngọc. Ta bước vào ngôi nhà không bóng người đó. Một đống lửa đang cháy. Một chung rượu đang nóng. Mệt và khát ta uống cho đến khi liêng biêng say:
- Dậy thôi, Người phải rời nơi này…
Có tiếng người gọi giục ta như vậy. Gấp gáp. Vội vàng. Ta bừng tỉnh. Lãnh hương còn quấn quýt không rời.
Như đã biết được giấc mơ của ta từ trước, Ngọc mở đường máu cùng ta và đoàn ngự rời đi.
*
Ta lại thêm một lần nữa rời đi. Và sau này càng đi sâu vào cuộc chiến một mất một còn này chỗ ở của ta đã không còn cố định nữa. Khi chạy đến Ma Rai, khi về Thanh Cước, lúc lại sang Khe Ve, quanh quẩn mãi trong vùng rừng núi Quảng Bình, Hà Tĩnh. Những hạt mai ta mang theo cũng chỉ kịp vùi dưới đất vội vàng.
Những riêng tư chìm khuất dưới những xác người vì ta mà hi sinh.
Máu đỏ đầu đen ai cũng là một kiếp người. Ai cũng có quê hương. Có mẹ cha. Và không ai được phép mềm yếu. Tự do không thể được nảy mầm từ sự khuất phục.
Nhưng ta đã bị khuất phục!
Chiến tranh.
Tàn khốc.
Lừa dối.
Tao loạn.
Ly biệt.
Tất cả những điều đó ta đã trải qua hết khi tuổi đời vừa chớm sang 17. 17 tuổi thôi ta đã sống trọn một kiếp người!
*
Tháng chín năm đó, Ngọc làm phản. Làng Tả Bảo lênh láng máu của những người đã cùng Ngọc vào sinh ra tử. Ta bị bắt trong sững sờ. Đêm đó trắng đến kì dị, đến nỗi ta có thể nhìn thấy rõ những sợi râu trên mép Ngọc lay động. Ngọc muốn nói gì với ta nhưng không thể.
- Ngươi giết ta đi! Ta thà bị giết còn hơn để bị bắt.
Tiếng ta rơi tõm vào trong đêm ù đặc sương trắng. Tiếng kim khí va vào nhau leng keng, và cả những tiếng kêu thất thanh tuyệt vọng “Hoàng thượng! Hoàng thượng” nhỏ dần rồi tắt hẳn.
Trên đường dốc chiến, chỉ còn lại mình ta. Đôi mắt ta trân trối nhìn ra ngoài trời um tùm lau lách. Ánh trăng của đêm tối chỉ đủ làm những vật xung quanh thành hai khối đen trắng với những hình hài không rõ nét.
Ta về lại Huế, đứng trước điện Thái Hòa mà như người xa lạ. Bao yêu thương ta đã gửi gắm trên đất đai núi rừng trùng điệp trong những ngày tháng bi hùng rồi. Người ta đã không giết ta nhưng lưu đày cũng chính là ban cho ta một cái chết không mồ đau đớn nhất.
*
- Ưng à, lên bờ thôi!
Tiếng mạ tha thiết cất lên rồi vụt mất khi ta lặn một hơi dài xuống tận đáy sâu của dòng sông Bạch Yến. Nước sông vây lại, vừa vặn ôm kín người ta bằng những đợt sóng dập dềnh.
Đó là lần cuối cùng ta tắm trên dòng sông. Lần cuối cùng ta được nghe tiếng mạ gọi quen thuộc mà lại thiết tha và mê đắm đến thế…
*
Sông Bạch Yến nổi gió. Ta đứng đầu mạn thuyền nhìn ra xa xa buổi chiều ráng vàng đầy khói. Cố quốc, cố nhân và cả dòng sông này, bờ bãi kia... tất cả đều khiến ta bồi hồi...
...Ta với tay khỏa xuống nước sông Bạch Yến những mong dòng nước cuốn đi những nghĩ suy trong đầu đã quá nhọc nhằn.
Dòng nước tung tẩy trên tay rồi tuột xuống. Lấp lánh. Chao đảo. Con sông nằm khuất bóng ở phía tây nam với những bờ bãi đang chuyển mùa thêm một lần nữa lặng lẽ tiễn ta rời xa kinh thành.
Gió từ sông thổi thốc từng hồi. Cơn lạnh nhói lên từ khiến ta vội vàng đưa tay ôm ngực. Rồi nhắm mắt. Trong phút hụt hẫng chênh chao ấy ta chợt nhận ra mùi hương thân thuộc còn vấn vít trong những hạt mai còn dấu trong tay áo. Những hạt mai như những viên đạn đã lại găm vào ta vô vàn những vết thương lòng…