Nhưng từ lâu dân Lũng Xuyên thường gọi ông với cái tên gần gũi là ông giáo Hoài. Họ luôn luôn kể về ông với niềm tự hào và lòng nhớ thương vô hạn…
![]() |
| Đúng 6h, Quốc kỳ được kéo lên tung bay trên Quảng trường Ba Đình, Ngày 2/9/2024. Ảnh: Hoàng Hiếu - TTXVN |
Tình cờ đi qua ngôi đình cổ Lũng Xuyên, tôi được nghe kể nơi đây xưa nhiều thanh thiếu niên đã ngồi gò lưng học bài do thầy giáo Hoài dạy chữ. Tên khai sinh của thầy là Nguyễn Hữu Tiến (sinh năm 1901), còn tên Hoài được gọi một cách trìu mến trong gia đình, họ tộc. Không chỉ học chữ mà thanh niên trong làng còn được thầy Hoài dạy lễ nghĩa, tình yêu quê hương, và tính tự tôn dân tộc. Chính vì thế sau này, khi hoạt động cách mạng, tham gia chi hội đầu tiên của xã, thầy Hoài đã nhanh chóng thu hút được lực lượng trẻ tham gia hoạt động rất tích cực.
Năm 1927, Nguyễn Hữu Tiến đã tham gia tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, và là Phó bí thư phụ trách tuyên truyền. Hai năm sau ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và trở thành bí chi bộ đầu tiên tại xã. Nhiều học trò đã theo ông hoạt động cách mạng. Năm 1931, bí thư Nguyễn Hữu Tiến được bầu làm Tỉnh ủy viên, phụ trách tờ báo “Đỏ búa liềm công nhân” của Hà Nam. Phong trào cách mạng của Hà Nam ngày một lớn mạnh cùng với lực lượng phát triển khắp nơi làm cho thực dân Pháp hoang mang lo sợ. Ngay lập tức, chúng ra lệnh bắt ông và tuyên án tử hình. Nhưng do các tầng lớp trí thức học sinh phản ứng biểu tình rầm rộ, thực dân Pháp phải hạ xuống mức án tù khổ sai chung thân, bị giam cầm ở Hỏa Lò. Vừa vào tù, ông liền tham gia viết bài cho tạp chí “Lao tù”, và trở thành cây bút chủ lực. Sau đó, thực dân Pháp chuyển ông lên nhà tù Sơn La, cuối cùng đầy ra Côn Đảo.
Với ý chí cách mạng kiên trung, tính cách quật cường không chịu khuất phục nơi tù đầy khốc liệt, ông đã bàn với các đồng chí trong chi bộ kế hoạch vượt biển trốn tù. Đó là một ý chí táo bạo và hết sức dũng cảm, bởi sẽ vượt ngục bằng cách nào với sóng to gió lớn, mênh mang biển trời. Sau nhiều thời gian chuẩn bị, vượt biển lần thứ nhất không thành vì sóng quá lớn, đến lần thứ hai vào một đêm biển lặng, cuối tháng 4-1935, các chiến sĩ đã vượt ngục thành công. Tinh mơ sáng hôm sau ông và ba người khác đã cập bè vào đất Bạc Liêu, trước sự ngạc nhiên và mừng rỡ của bao người.
Ngay lập tức, ông tiếp tục hoạt động cách mạng ở Liên Tỉnh ủy Long-Châu-Rạch-Hà (gồm Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá - Hà Tiên), với bí danh là Quế Lâm. Mấy năm sau, phong trào hoạt động ngày một lớn mạnh, phong trào Mặt trận bình dân hết sức sôi nổi làm thực dân Pháp hoảng sợ. Chúng ra sức đàn áp, khủng bố lực lượng cách mạng địa phương, hòng dập tắt phong trào cách mạng. Nhưng chúng không thể ngờ rằng Xứ ủy Nam Kỳ đang khẩn trương chuẩn bị cuộc khởi nghĩa. Năm 1939, đồng chí Nguyễn Hữu Tiến được điều về Sài Gòn - Định tham gia ban lãnh đạo. Và năm sau (7-1940), ông được lãnh đạo Xứ ủy giao nhiệm vụ vẽ lá cờ, làm biểu trưng cho cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ (11-1940).
|
Là một người làm báo cách mạng và lại là một thầy giáo, với nhiều vốn liếng văn chương, lịch sử phong phú, đồng chí Nguyễn Hữu Tiến được lãnh đạo tin cậy có những ý tưởng sáng tạo và tìm ra được ý nghĩa biểu trưng của lá cờ. Đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, bởi lá cờ chính là lời kêu gọi và tiểu biểu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Biết bao nhiêu hình tượng lần lượt hiện ra trong đầu ông giáo làng ngày nào. Những vần thơ yêu nước của các chí sĩ như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… thôi thúc trong trái tim nồng nhiệt của ông. Cùng với đó, sự gợi ý về hình ảnh lá cờ đỏ búa liềm của đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, và nhất là sự chỉ đạo của Tổng bí thư Trần Phú lúc đó như một sự khai thông cho một ý tưởng mà ông đã nung nấu bao ngày đêm. Đó là hình tượng “Ngôi sao năm cánh trên nền cờ đỏ”.
Vậy bố cục thế nào đây và phải giải mã cho một biểu tượng thật không đơn giản. Lại những đêm nghĩ suy về ý nghĩa của năm cánh ngôi sao trên nền cờ đỏ thắm. Rồi bất ngờ trong một đêm, những câu thơ lóe sáng để lý giải về những cánh sao như một sự thần kỳ, ông đã hối hả viết những câu thơ cháy bỏng:
Hỡi những ai máu đỏ da vàng
Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc
Nền cờ thắm máu đào vì nước
Sao vàng tươi da của giống nòi
Đứng lên mau! Hồn nước gọi ta rồi
Hỡi sỹ, nông, công, thương, binh.
Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh.
Vậy là đúng vào ngày 30-7-1940. Bản in đầu tiên hình tượng lá cờ đỏ sao vàng trên đá đã được thực hiện, làm mẫu cho hàng ngàn lá cờ khác được đưa đi các cơ sở bí mật. Mẫu lá cờ do ông thiết kế đã được in trên trang nhật báo “Tiến lên” cùng với bài thơ ông sáng tác kêu gọi nhân dân Việt Nam đoàn kết chiến đấu dưới lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc. Nhưng khi công cuộc vừa hoàn thành thì ông bị địch bắt (8-1940) và không kịp tham gia cuộc khởi nghĩa vào cuối năm đó.
Cuối cùng cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (23-11-1940) đã không thành công. Nhiều chiến sĩ và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa bị bắt nhưng ý chí cách mạng của người dân miền Nam vẫn âm thầm mãnh liệt và chờ thời cơ bùng nổ. Thực dân Pháp muốn ngặn chặn phong trào cách mạng với khí thế đang sục sôi, nên vào ngày 28-8-1941, chúng đã đưa đồng chí Nguyễn Hữu Tiến cùng các đồng chí lãnh đạo cuộc khởi nghĩa như Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, và Hà Huy Tập ra pháp trường xử bắn. Biết trước tình thế phải hy sinh vì sự nghiệp cách mạng, đồng chí Nguyễn Hữu Tiến đã viết những câu thơ rực lửa, trước khi ra pháp trường:
Vĩnh biệt hôm nay có mấy lời
Nhắn cùng đồng chí khắp nơi nơi
Tinh thần để lại cho non nước
Thù hận ghi sâu giữa đất trời
Án chém Hà Nam đà rũ sạch
Khổ sai Côn Đảo đã qua rồi
Anh em đi trọn con đường nhé
Cờ đỏ sao vàng sáng tương lai.
Đúng như ông dự báo, bởi trước đó vào tháng 5-1941, tại hội nghị Tân Trào chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Quốc dân đại hội đã nhất trí chọn lá cờ của Nguyễn Hữu Tiến làm Quốc kỳ của đất nước Việt Nam độc lập.
Sau này, nhạc sĩ Văn Cao viết “Tiến quân ca” vào cuối năm 1944, chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám, hình tượng lá cờ đỏ sao vàng cũng đã hiện lên như sự hòa nhập ý tưởng sục sôi cách mạng trong những vần thơ của Nguyễn Hữu Tiến. Những lời ca rạo rực khí thế chiến đấu với hình ảnh: “Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước. Súng ngoài xa chen khúc quân hành ca…”, hay “Đoàn quân Việt Nam đi. Sao vàng phấp phới. Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than…”. Thật đặc biệt, khi tôi bước vào “Nhà tưởng niệm đồng chí Nguyễn Hữu Tiến”, đã thấy bức họa chân dung ông do chính nhạc sĩ Văn Cao vẽ. Bên cạnh bức chân dung là bài thơ đầy khí phách của Nguyễn Hữu Tiến viết trước khi ra pháp trường với sự khẳng định sáng ngời chân lý: “Cờ đỏ sao vàng sáng tương lai”. Hiện ông Phạm Ngọc Thách, cháu ngoại của liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến, trông coi Nhà Tưởng niệm. Ông kể, học sinh các trường được đặt tên Nguyễn Hữu Tiến trong huyện Duy Tiên thường xuyên đến thăm viếng. Thầy và trò luôn ôn lại những ký ức hào hùng của nhà cách mạng tiền bối Nguyễn Hữu Tiến. Không học sinh nào không nhớ đến bài thơ về lá cờ mà liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến viết vào năm 1940. Nhất là câu kết của bài thơ: “Hồn nước gọi ta rồi. Hỡi sỹ, nông, công, thương, binh. Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh”
Tuy không phải là họa sĩ, nhưng tinh thần cách mạng cháy bỏng và lòng yêu nước nồng nàn của Nguyễn Hữu Tiến đã để lại cho Tổ quốc một kiệt tác. Bất cứ ai khi được tận mắt ngắm nguyên mẫu lá cờ đỏ sao vàng do đồng chí Nguyễn Hữu Tiến thiết kế cũng rưng rưng xúc động. Bức họa chân dung ông, do họa sĩ Văn Cao vẽ, như một sự hội tụ của hai con người bất tử, hai chiến sĩ của Quân đội Việt Nam anh hùng. Nếu bản quốc ca như một hiệu lệnh lên đường, thì lá cờ chính là hình ảnh tiên phong dẫn lối. Ông Phạm Ngọc Thách bồi hồi nâng lá cờ Tổ quốc nói, nhà cách mạng tiền bối, liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến là niềm tự hào của quê hương. Lá cờ đỏ sao vàng luôn luôn bay cao, trên mọi miền đất nước, cũng như trên biển đảo quê hương Việt Nam.