Sáng tác

Linh Tiên. Truyện ngắn của Vũ Liêm

Vũ Liêm
Truyện 07:53 | 17/09/2025
Baovannghe.vn - Linh Tiên quán là cơ sở tín ngưỡng hỗn dung của Phật giáo và Đạo giáo, tương truyền được xây dựng từ trước thời kì Bắc thuộc.
aa

Cái tên Linh Tiên gắn liền với huyền thoại người xưa hữu duyên trông được thần tiên xuống đánh cờ, cảm ngộ rồi cho xây quán

Linh Tiên quán là cơ sở tín ngưỡng hỗn dung của Phật giáo và Đạo giáo, tương truyền được xây dựng từ trước thời kì Bắc thuộc. Cái tên Linh Tiên gắn liền với huyền thoại người xưa hữu duyên trông được thần tiên xuống đánh cờ, cảm ngộ rồi cho xây quán.

Linh Tiên. Truyện ngắn của Vũ Liêm
Minh họa Phạm Hà Hải

Thời nhà Mạc, Linh Tiên quán được phò mã đương triều là Mạc Ngọc Liễn trực tiếp đứng ra chủ sự tôn tạo trùng tu. Liễn tước Đà quận công, là kẻ hùng anh, đặc biệt nặng lòng với văn hóa dân tộc. Người này vốn dòng võ tướng công thần khai quốc, ban đầu họ Nguyễn, sau được vua ban quốc tính. Từ thuở nhỏ Liễn đã nổi tiếng thông minh cương trực, lớn lên tinh thông binh pháp, võ nghệ cao cường. Bấy giờ cha Liễn là Nguyễn Kính đang làm quan to đầu triều lấy làm đắc ý, tuy thế vẫn sợ mai này mình trăm tuổi, hậu nhân có điều gì thất thố lại di họa đến cả tông tộc. Nhân một hôm cha con đối ẩm, nhằm lúc ngà ngà say mới hỏi Liễn “Thiên tử là con trời, vậy thì trời họ gì?” Liễn thủng thẳng đáp “Họ Mạc!” Lại hỏi “Vậy từ xưa lập chủ quyền phương nam, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần rồi lại Lê xưng vương xưng đế cũng là con trời, thì là trời nhiều họ thế sao?” Liễn đang nâng chén vội đặt xuống, nhìn cha bật cười “Trăm họ từ trời mà ra, vậy thì trời đương nhiên trăm họ.” Kính nghe xong thì vỗ nhẹ vào đùi rồi khật khưỡng đứng lên vào nghỉ. Liễn ngẩng lên nhìn trăng, thì lạ thay thấy trăng như ở rất gần mình, thò tay chạm được, cảm giác mềm như bột. Tuy nhiên khi ấy, thần trí Liễn hẵng còn ý thức nên tự cho là mình say, trông gà hóa cuốc. Liễn xua tay thì thấy ánh sáng tỏa lan rồi cứ thế tan biến dần vào thinh không. Vừa khi ấy có tiếng loảng xoảng vụn vỡ khiến cái cảm giác mị du kia của Liễn bị đánh trôi tức thì. Người bõ già gia nhân lâu năm của nhà xuất hiện mếu máo. Ông ta đã được lệnh cho lui nhưng vẫn nấn ná vì đoán định như mọi khi, chắc chủ sẽ còn việc cần hầu hạ. Rồi vì vô tình nghe được cuộc hồi đáp giữa hai cha con Liễn nên lấy làm hoảng sợ, đi chẳng được, ở chẳng xong, lóng ngóng làm rơi bầu rượu trên tay. Ông già cứ thế đập đầu xuống đất liên miệng nói “Đáng chết.” Liễn tiến lại nâng vai ông lên, nhẹ nhàng gẩy bụi trên áo, rồi vờ say nói những chuyện tầm phào nào gió nào trăng. Ông già lơ ngơ và run rẩy, Liễn vịn vai ông ngất ngưởng đi về phòng. Hôm sau ngủ dậy, Liễn truyền bõ già lên mắng tại sao hôm qua gọi mãi không được, rồi hỏi tên loại rượu hồi đêm uống, sau đó cho lui.

Liễn nhân việc thấy như chạm nắm được trăng, muốn tìm cảm giác lạ, buổi sau cố uống thật say, nhưng chẳng bao giờ thấu được ánh trăng kì diệu như bữa đối ẩm cùng thân phụ. Từ đó càng bán tín bán nghi về chuyện linh diệu của đất trời. Một thời gian sau, Liễn hữu duyên mua được bức tranh có tên “Lãng bạc phùng Tiên” mô tả lại chuyện vua Lê Thánh Tông gặp thần nhân dạo nọ ở hồ Tây. Bức tranh không rõ làm bằng chất liệu gì, nhưng khi tối trời, tắt hết đèn nến trong nhà, mặt tranh sẽ phát sáng, tạo cảm giác bồng bềnh như dòng nước quyện hòa cùng ánh trăng lóng lánh. Các nhân vật trong tranh cũng bởi vậy mang thần sắc tươi tắn sinh động như thật. Liễn mê đắm họa phẩm này, thường tự ngắm một mình chẳng đem khoe với ai. Và do thế niềm tin vào chuyện thần tiên càng thêm canh cánh bên lòng.

Năm ấy Liễn và vợ (Phúc thành thái trưởng công chúa) Mạc Thị Ngọc Lâm phát tâm tu bổ lại đạo quán Linh Tiên. Tuy nhiên việc xây dựng gặp nhiều khó khăn, hết mưa gió bão bùng lại có người gặp tai nạn trong lúc thi công. Đám thợ ban ngày thấy Liễn thì cứ cúi gằm mặt chẳng nói chẳng rằng, đêm đến ngồi túm tụm rì rầm nhỏ to gì đó. Liễn cho người nghe ngóng thì được biết, mọi người đều tin rằng thần linh chưa ứng chưa độ, nên việc trùng tu tôn tạo sẽ chẳng hanh thông được. Liễn ban đầu gạt đi vì nghĩ bản thân mình có lòng thành, lẽ nào trời đất lại không thuận, thế nhưng việc ngăn trở ngoài ý muốn cứ lặp đi lặp lại không sao lí giải được khiến cho Liễn không khỏi phiền muộn. Công chúa thấy chồng trăn trở suy nghĩ thì khuyên hay là tạm dừng cho nhẹ tâm. Liễn ậm ừ rồi quyết định đến lưu lại vài hôm trong đạo quán với hi vọng tìm hiểu nguyên cớ.

Đêm đó trăng thanh gió mát, nhưng Liễn lại bồi hồi không ngủ được. Giữa canh ba Liễn trở dậy tản bộ, thì chợt thấy ánh sáng bừng lên ở mé sân. Liễn hiếu kì bước lại, hóa ra đó là chỗ giếng cổ rêu phong. Ánh trăng thượng tuần đang lên cao, chiếu hắt bóng cây đại thụ kế bên thành một mảnh sáng nhỏ nơi thành giếng. Thứ ánh sáng nửa lạ nửa quen khiến Liễn bỗng rạo rực, thần trí trở nên mơ hồ. Nhìn một lúc Liễn ngỡ ngàng khi bóng trăng in trên thành giếng dịch dần xuống theo phương thẳng đứng, cũng là lúc mức nước hạ theo. Liễn kiên trì quan sát, đến khi vừa vào canh bốn thì nước đã rút cạn chỉ còn trơ lại đáy. Và quang cảnh kì ảo hiện ra. Lòng giếng có nguồn sáng lung linh hắt ngang từ một khe bên cạnh. Hóa ra phía dưới có hang ngầm.

Liễn thấy trong người bồn chồn, định bụng quay về gọi người cùng xuống thám thính nhưng lại trộm nghĩ, biết đâu đây là cơ duyên dành riêng cho mình. Thế là Liễn lấy con dao nhỏ vẫn mang bên người cắt dây gàu, một đầu buộc vào gốc cây, đầu kia thả xuống giếng. Liễn theo đó mà đu mình men vách giếng, từ từ di chuyển thận trọng. Xuất thân con nhà võ, thân thủ chẳng phải hạng xoàng nên chưa đầy một khắc, Liễn đã xuống tới nơi.

Đáy giếng chan hòa ánh sáng, mặt đất sạch trơn như có người thường xuyên quét dọn. Liễn cảm được mùi hương dìu dịu lại vừa lạ vừa quen. Cùng với đó là thanh âm tiếng sáo du dương từ bên trong cửa hang vọng ra. Liễn ngẩn ngơ một hồi rồi mới đánh bạo bước vào.

Càng đi sâu, lòng hang càng mở rộng. Cỏ cây hoa lá đều tắm trong thứ ánh sáng tinh khôi diệu kì. Thần trí Liễn bồng bềnh như mơ như thực, nhưng vẫn ý thức được mục đích khám phá của bản thân. Khoảng hơn trăm bước chân, Liễn nhìn thấy có người đang ngồi đó, vắt vẻo trên một tảng đá, đúng dáng tiên phong đạo cốt. Người này tóc bạc trắng nhưng da hồng hào, đôi mắt thần thái chứa mục quang như nhìn xuyên thấu tâm can kẻ đối diện. Thấy Liễn ông ta buông sáo, mỉm cười cất lời “Hữu duyên mà hôm nay mới được hạnh ngộ, há chả phải đáng tiếc đó sao?” Liễn tự thấy bụng chẳng bất ngờ, như đã đón đợi cuộc gặp gỡ này từ trong sâu thẳm tâm thức, nên nhẹ nhàng ngồi xuống cạnh người kia đáp lời “Là ngài không muốn chứ tôi vẫn luôn kiếm tìm.” Người kia tiếp tục tủm tỉm rót nước mời Liễn. Liễn nâng chén uống một ngụm thấy mát rượi và ngon lành dù không màu chẳng vị. Người kia lại mời hoa quả, Liễn nhận nhưng không thụ hưởng mà đặt trong lòng bàn tay mân mê. Người kia lại cả cười “Há lại sợ có độc tính chăng?” Liễn lắc đầu “Sợ ăn rồi lại thấy đây là đời thực thì chán chường lắm.” Người kia hiểu ý cầm trái đào lên ngang mặt hít nhẹ một hơi rồi tiếp lời “Cái hương có thể tưởng chứ cái vị thì khó mơ lắm.”

Liễn ngẩn ngơ ngắm nhìn quang cảnh xung quanh lòng hang. Ánh sáng mạnh đến độ làm các chi tiết trở nên mờ ảo chẳng rõ ràng. Liễn đoán định người trước mặt mình là thần nhân đến mười phần, chỉ là băn khoăn không biết nên hỏi việc gì. Liễn cứ ngờ ngợ đợi người kia cất lời nhưng y lại chỉ tiếp tục nâng sáo lên tấu một nhạc khúc. Tiếng khoan nhặt dìu dặt lúc xa lúc gần, khi trầm khi bổng mà lại rất đỗi tự nhiên gần gũi khiến người nghe chẳng muốn dừng. Liễn bỗng thèm cảm giác được nhắm mắt lại tận hưởng thì chợt giật mình tự hỏi lòng, biết đâu khi mở mắt ra tất cả sẽ biến mất. Thời khắc suy nghĩ ấy đến với Liễn cũng là lúc khúc nhạc ngưng lại đột ngột. Liễn thấy hụt hẫng, trống rỗng vô cùng. Người kia chỉ tay lên phía trên nhẹ nhàng hỏi “Còn muốn quay lại trên đó?” Lời nói nhẹ bẫng mà lòng Liễn nặng trĩu. Phút chốc từng gương mặt người đã gặp, từng nơi chốn đã ghé chân như chạy băng băng trước mặt Liễn, trước khi lao thẳng vào tâm can. Liễn rúng động rồi đổ mồ hôi lạnh gáy, không còn giữ được sự bình thản, gượng cười. Người kia vẫn nguyên vẻ điềm tĩnh, gật nhẹ đầu cảm thông “Vậy thì lên làm nốt việc đang dở ở đây đã.” Liễn chuyển sang thái độ cung kính lắng nghe. Người kia lấy mũi sáo thấm nước, rồi vạch xuống bàn giảng giải “Bát quái cửu cung tám phương chín vị trong trời đất. Tam nguyên cửu vận tinh đẩu chuyển dịch. Hiện đã vào vận mới mà cứ an bài khai môn theo phương vị cũ thì sao hanh thông được. Nay sao Bát Bạch đang làm chủ, phương Đông Bắc nắm quyền, lại là nơi quái Cấn hành thổ tượng vạn dân là gốc hữu đạo. Vậy theo đó mà dựng lại quán cho thoả tâm nguyện, ngày sau hữu duyên còn gặp lại.” Liễn nghe xong thì hiểu ngay, đang tính nấn ná hỏi thêm thì người kia đã khoát tay cáo từ, rồi rũ áo đi vào bên trong. Liễn định theo nhưng lại sợ thất thố nên cứ dùng dằng. Người kia ý chừng cảm được nên quay lại hỏi “Vậy cố nhân thấy ta có quen mặt chăng?” Liễn ngẩn người càng thấy mông lung, nhất thời chân cứ chôn chặt xuống đất. Một hồi dáng người kia khuất dần chỉ còn tiếng vọng lại “Khi nào nhớ ra tất hồi quy.”

Liễn ngổn ngang trăm mối bên lòng, mãi rồi cũng cất bước trở ra. Kì lạ thay ánh sáng cứ nhạt dần theo lối Liễn quay lên. Từ trong lòng giếng, Liễn ngửa mặt nhìn bầu trời, thấy màu đen thẫm ngả dần sang sắc tím tái hư hao. Chẳng có bóng trăng, chỉ còn vài vì sao khi mờ khi tỏ lẻ loi trên nền trời. Mọi thứ dần trở nên lạnh lẽo, ảm đạm nhưng rất thực như sợi dây gàu thô ráp vẫn lòng thòng giữa không trung. Liễn bám dây thận trọng leo lên. Cảm được sự sần sùi của nó trong tay, khiến Liễn có thể khẳng định rằng đấy chính là hiện thực. Còn sự không rõ ràng giờ đây ở phía sau lưng Liễn. Ấy là một thứ gì rất lớn, rất căng đang dâng đầy lên. Và phía trước Liễn, trên bầu trời một vì sao lạc nào đó cũng đang chuyển dịch.

Liễn ra khỏi giếng, trở lại thư phòng, đặt tay lên trán ngẫm nghĩ về sự kì ngộ vừa rồi và thiếp đi lúc nào không hay. Khi tỉnh giấc trời đã sáng rõ. Liễn theo lối cũ ra giếng thì thấy sợi gàu vẫn buông thõng xuống bên dưới, nhưng mực nước đã trở về như cũ. Khi lôi lên thì chỉ còn đầu dây trơ trọi xác xơ vì ngấm nước. Liễn cứ đứng tần ngần nhìn bóng mình soi tỏ trên mặt giếng. Cuộc gặp gỡ phảng phất cả hình dung lẫn thanh âm, lăn tăn như gợn nước dưới tầng sâu thăm thẳm kia. Mãi rồi Liễn cũng bỏ nó ra khỏi tâm tưởng, trở gót bước đi về lại đời thực.

Liễn bắt tay vào thi công theo như lời người kia nói, đổi hướng cửa quán từ Tây Nam sang Đông Bắc, quả nhiên mọi việc hết sức thông suốt, vài tuần trăng đã xong xuôi. Những người thợ lộ cảm xúc quá khích ra mặt, có người khóc vang, lại có kẻ cười to, khi đi một vòng ngắm nghía công trình hoàn tất. Ngày khánh thành, Liễn nắm tay vợ khi triều bái. Công chúa Ngọc Lâm ửng hồng đôi má trước cử chỉ của chồng thẽ thọt hỏi: “Đây là chốn linh thiêng chàng làm vậy có phần nào thất thố chăng?” Liễn chỉ cười tủm lắc đầu: “Đạo Phật chắp tay để hợp nhất thánh thiện và nhiễm ô, vô sinh vô diệt thoát khỏi luân hồi đến Niết bàn, Đạo giáo lại tay trái xòe, tay phải nắm, cùng kết liên đặt hai ngón cái ở giữa tạo thành chữ Nhân, để biểu thị dung hòa Đất Trời Người, tìm sự trường sinh bất tử nơi trần thế. Nay ta nắm tay nàng cho phải đạo vợ chồng trước thần linh thì có được chăng?” Công chúa im lặng không đáp lời nhưng khi thắp hương, khói bay nghi ngút khiến mắt cứ cay xè. Đám thợ và quan khách được mời tới dự buổi khánh thành lặng im suốt quá trình hành lễ và nán lại rất lâu đến hết ngày. Tâm nguyện của hai vợ chồng Liễn vậy là đã nên thành tựu.

Về sau Liễn trở thành trụ cột chính của vương triều Mạc giai đoạn hoàng hôn. Gần như một mình ông chèo chống trước những cuộc tấn công của nhà Lê trung hưng do họ Trịnh điều phối, cũng như củng cố nội bộ trong triều đình Mạc rối ren, bởi vị quân chủ trẻ tuổi mà ông phò tá chỉ ham ăn chơi hưởng lạc. Lẽ đời phù thịnh chứ ít ai phù suy, nhiều người bỏ nhà Mạc vào theo nam triều, trong đó có cả cậu ruột của Liễn, nhưng ông vẫn trung trinh giữ tròn chức phận. Một lần quân Nam tấn công vào sâu trong kinh thành Thăng Long, quân Mạc thua to chạy như ong vỡ tổ, một mình Liễn vẫn tả xung hữu đột khiến đối phương thất kinh. Đoàn nạn dân chạy loạn thấy vậy tụ lại phía sau lưng ông, những mong tìm thấy điểm tựa cuối cùng giữa lằn ranh sinh tử. Thái uý Trịnh Tùng là người cai quản quân nam triều lúc bấy giờ thấy vậy thì tế ngựa xông lên, đưa roi trỏ mặt Liễn mà rằng: “Quân thất phu dám cãi mệnh trời, sao còn chưa chịu trói?” Liễn ghìm cương ngựa, chống thanh đao xuống đất cười gằn: “Đã nhận là tuân mệnh trời thì lên đây ta đàm đạo!” Màn đêm bao trùm, bập bùng những ánh đuốc soi tỏ diện mạo Liễn bấy giờ không chút biến sắc. Bóng kinh thành như đổ dài xuống đôi vai săn chắc vạm vỡ của ông. Khi ấy sau lưng Liễn chỉ là những dáng hình xác xơ và gương mặt khiếp đảm của các nạn dân, nhưng Trịnh Tùng lại bỗng thấp thỏm như thể trông thấy điều gì đặc biệt nên truyền quân rút lui. Năm đó quân Nam san phẳng thành lũy Thăng Long, rồi rút về không ở lại lâu. Liễn sau hôm ấy về trấn tĩnh suy tưởng, cảm giác dường như mình vẫn có thần nhân đi theo phù trợ, nên dù tự thấy vương triều nhà Mạc khó cứu vãn nhưng vẫn quyết lòng tận trung báo quốc.

Liễn quay lại Linh Tiên quán nhiều lần để tìm giải pháp tâm linh. Ông đứng trước miệng giếng, băn khoăn không biết có nên cho người tát cạn, rồi xuống lại lần nữa để biết chắc thực hư ra sao, và nếu được tái ngộ thì sẽ hỏi sâu người kia về vận nước, thế nhưng cuối cùng lại chẳng làm được. Thực tâm Liễn vẫn để bụng lời dặn dò năm ấy rằng nếu nhận ra thì ắt tự khắc gặp lại. Liễn hoàn toàn chưa thể nhớ ra mình đã thấy cái người đó ở đâu trước đêm trăng dưới lòng giếng đó, dù trong cả đời thực lẫn giấc chiêm bao. Hơn nữa có lẽ giữa những lo lắng băn khoăn áp lực về vận mệnh của cả vương triều, Liễn sợ phải đối mặt với sự rỗng không dưới lòng giếng, nếu sự kì ngộ năm nào đơn giản chỉ là mộng mị.

Kinh thành Thăng Long thời nhà Mạc cuối cùng cũng thất thủ bởi quân Nam triều. Vua Mạc khi đó là Mạc Mậu Hợp bị bắt và xử tử. Liễn cùng cánh quân thân tín rút lui vào những nơi hiểm yếu để gây dựng lại lực lượng. Ông cũng tìm được con cháu nhà Mạc lập làm vua mới, với hi vọng mong manh trời chưa tuyệt dòng máu đế vương. Suốt những năm cuối đời, Liễn nhiều lần tính chuyện khôi phục nhưng không thành. Ông cùng thủ hạ và hoàng tộc nhà Mạc bôn ba khắp dải đất vùng cao phía Bắc trước sự truy kích của nhà Lê trung hưng lúc này chỉ còn là hư danh, thực chất do họ Trịnh nắm quyền điều khiển. Nỗi niềm đau đáu chất chứa kì vọng về một thế cờ lật ngược của Liễn và gia tộc họ Mạc, dần dà cũng tan theo sương khói.

Năm 1594 Mạc Ngọc Liễn lâm trọng bệnh mê man suốt mấy ngày. Khi tỉnh giấc ông có tâm nguyện quay lại Linh Tiên quán một lần, cho dù lúc này nơi đó đang thuộc vùng kiểm soát của đối phương. Gia nhân thủ hạ ngăn cản thế nào cũng không được đành phải tuân lời, trù tính kế hoạch cải trang đưa ông xâm nhập để thành toàn ước muốn. Đến lúc Liễn sai người nhà đưa gương chải đầu chỉnh trang y phục thì một việc lạ xảy ra. Liễn khi nhìn vào tấm gương đồng bỗng chợt bật cười, sau đó nằm xuống và tuyệt chẳng nói năng gì cho đến khi mất vài ngày sau đấy. Trước lúc lâm chung, ông vẫn còn tỉnh táo để viết thư dặn vua Mạc khi đó là Mạc Kính Cung rằng “Nay vận khí nhà Mạc đã hết, họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Dân ta là người vô tội mà khiến để mắc nạn binh đao, ai nỡ lòng nào! Chúng ta nên lánh ra ở nước khác, nuôi dưỡng uy lực, chịu khuất đợi thời, chờ khi nào mệnh trời trở lại mới làm được, chứ không thể lấy lực chọi với lực. Khi hai con hổ tranh nhau, tất phải có một con bị thương không có ích gì cho công việc. Nếu thấy quân họ đến đây thì chúng ta nên tránh đi, chớ có đánh nhau với họ, cốt phòng thủ cẩn thận là chính, lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng.”

Mạc Ngọc Liễn mất tháng bảy âm lịch năm đó, các vua Mạc sau đó nghe lời ông chỉ cát cứ ở Cao Bằng, tuyệt nhiên không mượn quân Minh về đánh đối phương, giống như Trần Thiêm Bình dạo trước và Lê Duy Khiêm sau này vì quyền lợi cá nhân, dòng tộc đã khiến đất nước phải trải họa xâm lăng. Đây cũng là một trường hợp đặc biệt trong lịch sử phong kiến nước nhà.

Ngày nay đến Linh Tiên quán ở Hoài Đức, Hà Nội chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng tượng của hai vợ chồng Quốc công Mạc Ngọc Liễn được thờ phụng bên trong. Màu sơn đỏ uy nghiêm và nét ấn tượng khắc chạm vào thời gian chính là đôi mắt rất có thần của cả hai pho tượng tiếp tục đem đến cho dân gian những câu chuyện truyền kì khơi gợi cảm hứng.

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ
Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Baovannghe.vn - Ngày 4/12, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức công bố 72 thành phố của 46 quốc gia, trong đó có Thủ đô Hà Nội của Việt Nam được công nhận là thành viên Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu của UNESCO.
Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Baovannghe.vn - Trong phiên làm việc ngày 4/12, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi).
Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Baovannnghe.vn - Giọng đọc và hậu kỳ: Hà Phương; Đồ họa: Thùy Dương; Biên tập: Phạm Thị Hà
Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn