Diễn đàn lý luận

Một số khuynh hướng vận động và phát triển của văn học Việt Nam sau 50 năm thống nhất đất nước

Đỗ Hải Ninh
Lý luận phê bình 08:00 | 20/05/2025
Baovannghe.vn - 50 năm sau ngày thống nhất đất nước, nền văn học Việt Nam đã có bước chuyển mình mạnh mẽ: phong phú, đa dạng các khuynh hướng, hiện đại và cởi mở nhưng vẫn đậm đà bản sắc Việt Nam. Bài viết này sẽ tập trung làm rõ một số khuynh hướng cơ bản của văn học Việt Nam từ 1975 đến nay.
aa

1. Khuynh hướng quốc gia, dân tộc

Trong giai đoạn chiến tranh, ý thức dân tộc được thổi bùng lên mạnh mẽ, thể hiện qua ý chí quyết tâm chiến đấu chống giặc ngoại xâm và tình yêu quê hương đất nước. Sau năm 1975, ý thức quốc gia – dân tộc vẫn tiếp tục hiện diện trong văn học nhưng có những biểu hiện và hình thái khác. Trước hết có thể thấy ý thức quốc gia - dân tộc xuất hiện nhiều trong các sáng tác về chiến tranh. Đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng vẫn là một “siêu đề tài” trong văn học Việt Nam. Ý thức quốc gia dân tộc vẫn được thể hiện trong các tác phẩm viết về đề tài này như một dòng chảy ngầm mạnh mẽ, sâu xa, bền bỉ: Miền cháy (Nguyễn Minh Châu), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Khúc bi tráng cuối cùng (Chu Lai)… Các tác phẩm đã thể hiện một cách thấm thía nỗi đau chiến tranh với những hi sinh, mất mát nhưng cũng cho thấy ý thức về trách nhiệm của mỗi người dân với cộng đồng, tổ quốc. Nhiều tác phẩm văn học viết về chiến tranh đề cập đến vấn đề hòa giải và hòa hợp dân tộc như một khẳng định về ý thức dân tộc với khát vọng hòa bình như Chim én bay của Nguyễn Trí Huân, Thoa trong Tiểu thuyết đàn bà của Lý Lan…. Ở đây, ý thức dân tộc được thể hiện ở tầng chìm sâu, đó là bản sắc văn hóa.

Những năm đầu thế kỷ XX, ý thức quốc gia dân tộc một lần nữa trỗi dậy qua làn sóng thơ viết về biển đảo. Những bài thơ viết về biển đảo xuất hiện trong giai đoạn hai thập niên đầu thế kỷ XXI đa phần có âm hưởng hào hùng, tha thiết, khẳng định chủ quyền dân tộc thiêng liêng đối với quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa có sức lan tỏa mạnh mẽ, được công chúng hồ hởi đón nhận mà Tổ quốc gọi tên của Nguyễn Phan Quế Mai, Tổ quốc nhìn từ biển của Nguyễn Việt Chiến là những minh chứng tiêu biểu.

Ý thức quốc gia dân tộc được thể hiện qua sự trỗi dậy của loại hình tiểu thuyết lịch sử. Trong bối cảnh thời đại mới, loại hình tiểu thuyết này đã trở thành thể loại chuyên chở một cách sâu sắc và thành công những suy tư về quốc gia dân tộc, về căn cốt văn hóa dân tộc. Với sự xuất hiện của Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Sông Côn mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác) và hàng loạt tác phẩm đáng chú ý khác, tiểu thuyết lịch sử đã thực sự trở thành một khuynh hướng nổi bật trong văn học đương đại. Lịch sử được sáng tạo và diễn giải theo những cách khác nhau, thể hiện tư duy mới mẻ về lịch sử và cho thấy mối quan tâm đến văn hóa, tính cách tâm hồn dân tộc của các nhà văn.

Chọn viết về lịch sử, các nhà văn muốn hướng đến quá khứ của dân tộc, khơi dậy mối quan tâm về truyền thống, cội nguồn. Những giai đoạn lịch sử và những nhân vật lịch sử trước đây ít được nhắc đến nay lại trở thành tâm điểm chú ý của tiểu thuyết, như Hồ Quý Ly viết về giai đoạn cuối Trần đầu Hồ, hay Minh sư Vua Duy Tân trong tôi, Vua Thành Thái viết về các vị vua triều Nguyễn, viết về lịch sử phát triển của vùng đất Nam Bộ có Dòng biên viễn, Bửu Sơn kỳ hương. Những thăng trầm của các triều đại như nhà Trần, nhà Lý, những sự kiện và nhân vật lịch sử như Phùng Hưng, Ngô Quyền, Lý Nam Đế được lật lại, soi chiếu từ nhiều góc độ (như các bộ tiểu thuyết Tám triều vua Lý, Triều Trần của Hoàng Quốc Hải, Phùng Vương, Ngô vương, Nam Đế Vạn Xuân của Phùng Văn Khai). Viết về lịch sử, các tiểu thuyết không chỉ tái dựng lại từ văn hóa, phong tục, tập quán, sự kiện, nhân vật mà còn thể hiện những suy ngẫm về hiện tại, đó cũng là cách thể hiện ý thức quốc gia - dân tộc.

Như vậy, có thể thấy, văn học 50 năm sau ngày thống nhất đất nước đã thể hiện rất rõ ý thức quốc gia dân tộc trong các khuynh hướng, các thể loại, ở từng chặng đường. Không chỉ gắn với tinh thần yêu nước, trách nhiệm đối với tổ quốc, ý thức về quốc gia dân tộc là sự chia sẻ về nhận thức, tình cảm đối với bản sắc dân tộc, trải dài theo thời gian, từ quá khứ tới hiện tại và tương lai, mở rộng trong không gian của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, bao gồm cả người Việt trong nước và nước ngoài. Năm mươi năm sau ngày thống nhất đất nước, ý thức đó ngày càng thấm sâu trong tác phẩm văn học tạo nên những thành công mới của văn học Việt Nam trong tiến trình phát triển.

Một số khuynh hướng vận động và phát triển của văn học Việt Nam sau 50 năm thống nhất đất nước
Một số tác phẩm văn học Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất. Ảnh Thiên Điểu

2. Khuynh hướng phản tư (hay khuynh hướng nhận thức lại, khuynh hướng tự vấn, phi sử thi hóa):

Sau khi chiến tranh kết thúc, bối cảnh hậu chiến tạo nên khúc ngoặt mới của tiến trình văn học: văn học chuyển dịch từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự đời tư. Đặc biệt từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX, văn học hưởng ứng công cuộc cải tổ của Đảng với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, khơi nguồn cho quá trình tự quan sát, đánh giá, và suy ngẫm và nhận thức lại của nhà văn, hướng tới thể hiện tinh thần phản tư nhận thức lại hiện thực. Thế hệ nhà văn trưởng thành trong chiến tranh chống Mỹ như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Phạm Tiến Duật...với sự mẫn cảm nghệ thuật đã sớm có những tác phẩm viết theo khuynh hướng phi sử thi hóa.

Cũng từ quãng giữa thập niên 80 của thế kỷ trước, nhiều nhà văn đã đi trước thời đại bằng thái độ cổ vũ cho phong trào chống tiêu cực, phanh phui đến tận cùng cái ác, cái xấu. Xu hướng ca ngợi một chiều, lý tưởng hóa hiện thực trong văn học trước đây dường như đã được thay bằng một đối cực khác, đó là sự mổ xẻ, phân tích mặt trái, mặt tiêu cực của hiện thực đời sống, tiêu biểu là: Đứng trước biển, Cù lao Tràm (Nguyễn Mạnh Tuấn), Mưa mùa hạ (Ma Văn Kháng), Hạt mùa sau (Nguyễn Thị Ngọc Tú)…

Trong văn học sau 1975, hàng loạt câu hỏi được đặt ra, đặc biệt là những câu hỏi về giá trị sống, về sự suy thoái đạo đức, sự xuống cấp của các quan hệ người... Đã có những đổ vỡ đầy đau đắng trong nhận thức “khi thần tượng chỉ là đất đá” (Nguyễn Trọng Tạo). Tinh thần dân chủ và thái độ nhận thức lại lịch sử giúp cho văn học phát huy tích cực khả năng dự báo của nó. Ngay sau chiến tranh, chúng ta đã có Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh. Và Nguyễn Minh Châu bắt đầu đòi hỏi phải viết khác đi, nhìn khác đi, không được né tránh những nỗi đau và bi kịch. Đó là cảm hứng về sự thật, là thái độ dũng cảm nói lên nỗi đau và khát vọng của con người. Sự “văng xa” khỏi quỹ đạo sử thi và mô hình văn học phản ánh hiện thực giản đơn ngự trị trong hơn ba mươi năm kháng chiến đã khiến cho văn học sau 1975 trở nên giàu tinh thần nhân bản hơn, “gần người” hơn. Mỗi tác giả có một cách tiếp cận khác nhau khi nhìn vào cả hai mặt của “tấm huy chương” và băn khoăn về sự “mất mùa nhân nghĩa”, lo lắng khi “giá chợ đen ngoảnh mặt với đồng lương”. Nhiều nhà văn đã nỗ lực thoát khỏi sự “bao cấp về tư tưởng” để cất lên tiếng nói cá nhân như một hình thức xác nhận mới về trách nhiệm của nghệ sĩ trước đời sống và số phận con người trong hàng loạt quan hệ phức tạp. Cảm hứng này về sau càng đậm nét qua tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng… Đây cũng là một trong những nguyên nhân kích thích nhu cầu bộc lộ cái tôi của nhà văn trên cả phương diện đời tư lẫn cá tính sáng tạo. Người viết không còn e ngại việc thể hiện bản thân mình, những suy ngẫm chiêm nghiệm, trải nghiệm riêng trong tác phẩm. Từ hướng ngoại, văn học dần chuyển sang hướng nội, “quan tâm khai thác một hiện thực khác, cũng phong phú, dồi dào chất liệu không kém, đó là thế giới bên trong thầm kín, thế giới vi mô của con người” như nhận xét của Nguyễn Ngọc Thiện. Đây là thời kỳ cái tôi tác giả được phát huy mạnh mẽ để khám phá và đi đến tận cùng những vấn đề của con người và xã hội trong những chiều kích mới: chiến tranh, tôn giáo, số phận cá nhân, hạnh phúc riêng tư…

Trong suốt mấy chục năm sau chiến tranh, khuynh hướng phản tư vẫn luôn hiện diện trong đời sống văn học với cảm hứng nhìn lại những bi kịch cá nhân và thời đại trong cơn bão táp của lịch sử. Không né tránh những sai lầm của một thời, truy nguyên tận cùng cái ác, cảnh tỉnh về sự tha hóa đạo đức, các tiểu thuyết này thể hiện niềm xót thương những phận đời oan khuất và minh oan chiêu tuyết cho những thân phận ấy. Đa phần các tiểu thuyết thường có dung lượng lớn, bao quát lịch sử thăng trầm của cả đời người hay cả dòng họ, qua nhiều thập kỷ để nhận thức sâu hơn về lẽ đời. Nhiều tác phẩm đã chạm đến vấn đề cốt tử của nông thôn Việt Nam và những xung đột văn hóa trong sự lựa chọn truyền thống và hiện đại, bảo thủ hay đổi mới. Đây là khuynh hướng chủ đạo trong văn học Việt Nam giai đoạn vừa qua và đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận.

3. Khuynh hướng văn học giải hiện thực và thể nghiệm cách tân

Bên cạnh khuynh hướng phản tư hướng tới sự nhận thức lại hiện thực thì có một khuynh hướng khác cũng xuất hiện trong không gian cởi mở của công cuộc đổi mới: giải hiện thực. Từ ý thức đổi mới quyết liệt trong cái nhìn về hiện thực, các nhà văn đổi mới tư duy nghệ thuật và từ chối phản ánh hiện thực. Có thể nói đến cảm quan hậu hiện đại trong văn học với sự phá bỏ đại tự sự, kiến tạo hiện thực thậm phồn trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh… Đó là những tác phẩm mang cái nhìn đa chiều về đời sống, cách viết vượt ra khỏi những nguyên tắc và cấu trúc truyền thống: rời bỏ nguyên tắc điển hình hóa, phá vỡ kết cấu truyện kể kịch tính và logic... Điều đó dẫn đến xu hướng giải thiêng và giễu nhại trở thành đặc điểm nổi bật của văn học khuynh hướng này. Đồng thời văn học cũng không còn nặng về cảm hứng triết luận và tính luận đề như giai đoạn trước mà để ngôn ngữ tự trình hiện bằng những biểu tượng và ký hiệu.

Từ sau năm 2000, xu hướng giải hiện thực ngày càng thu hút nhiều cây bút đương đại: Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn Quang Thiều, Dương Kiều Minh... Nếu như ở giai đoạn trước cốt truyện được nới lỏng và mờ hóa, thì giai đoạn này chứng kiến sự tan rã của cốt truyện. Văn chương dấn sâu thêm vào chủ đề cái ác và bạo lực như là cách đặt câu hỏi phản vấn và nỗi lo âu, hoài nghi về tồn tại của con người. Sự tự do của ngòi bút thể hiện trong cái nhìn đa chiều về đời sống, trong cách họ gửi gắm vào thế giới hư cấu đến độ huyễn tưởng. Điểm chung trong sáng tác của các cây bút giai đoạn này là hướng đến những cách tân nghệ thuật mạnh mẽ thay vì tập trung phản tư như ở giai đoạn trước.

Trong khoảng hai chục năm đầu thế kỷ XXI, rất nhiều cây bút đã thể nghiệm những cách tân nghệ thuật mới mẻ: ở văn xuôi là Đỗ Phấn, Y Ban, Nguyễn Danh Lam, Trần Nhã Thụy, Thuận, Đoàn Minh Phượng... ở thơ là Mai Văn Phấn, Trần Quang Quý, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Lê Vĩnh Tài...

Các tiểu thuyết theo khuynh hướng này có những cách thức giải hiện thực khác nhau, chẳng hạn sử dụng bút pháp huyền thoại và yếu tố kỳ ảo, mở ra một thế giới phi thực của những bí ẩn tâm linh cho thấy sự từ chối “phản ánh hiện thực” và sự hoài nghi tinh thần duy lý như Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Cõi người rung chuông tận thế (Hồ Anh Thái), Trăng nguyên sơ (Nam Dao)... Một số tiểu thuyết sử dụng kiểu trần thuật trò chơi ở các cấp độ văn bản từ ngôn ngữ đến kết cấu, nhân vật, hình tượng với các thủ pháp phân mảnh, cắt dán, lắp ghép, pha trộn thể loại, phỏng nhại, chẳng hạn ở Khải huyền muộn (Nguyễn Việt Hà), 3.3.3.9. Những mảnh hồn trần (Đặng Thân)... Tiểu thuyết “viết về sự viết” cũng trở thành một khuynh hướng đáng chú ý với các tác phẩm như Nhụy khúc (Đinh Phương), Life navigator: người tình của cả thế gian (Trần Tiễn Cao Đăng)… Quá trình viết được “bê nguyên” cả vào trong tác phẩm tạo nên những lớp hư cấu chồng xếp, giải ảo cho người đọc về sự “giống như thực” của câu chuyện. Đến giai đoạn đầu thế kỷ XXI, kiểu tiểu thuyết “viết về sự viết” chính là những “siêu hư cấu” gắn với thái độ chối bỏ quan niệm về thực tại khả tín.

4. Khuynh hướng văn học đại chúng

Có khá nhiều cách hiểu và quan niệm về văn học đại chúng, nhưng theo cách hiểu rộng nhất có thể coi văn học đại chúng “là loại hình văn học mang tính phổ cập, đậm chất giải trí, hướng tới số đông”. Ở Việt Nam, cùng với sự hình thành nền kinh tế thị trường, văn học đại chúng là bộ phận của văn hóa đại chúng, và là sản phẩm của thời đại tiêu dùng, gắn liền với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, truyền thông và công nghiệp văn hóa. Bộ phận văn học đại chúng đôi khi còn được gọi là văn học giải trí, hoặc văn học phổ thông. Sự phát triển của kinh tế thị trường tạo nên một nền văn học phong phú, đáp ứng nhu cầu thị hiếu của các loại hình công chúng khác nhau.

Với tác động của kinh tế thị trường và quá trình giao lưu, hội nhập văn hóa, từ thập niên 90 của thế kỷ XX, dòng sách giải trí và tiểu thuyết đại chúng xuất hiện ngày càng nhiều ở Việt Nam. Trước hết, sự xuất hiện sôi động của tiểu thuyết trinh thám với nhiều dạng thức/ biến thể như tiểu thuyết phản gián, tiểu thuyết hình sự, tiểu thuyết trinh thám kinh dị thu hút được người đọc bởi tính hấp dẫn của thể loại. Sự trở lại của tiểu thuyết trinh thám kinh dị có ý nghĩa không nhỏ trong hành trình phát triển của tiểu thuyết trinh thám. Các tác phẩm như Trại hoa đỏ Câu lạc bộ số 7 (Di Li), Âm mưu thay não, (Giản Tư Hải), Mặt nạ trắng (Kim Tam Long)… cho thấy khả năng hội nhập của văn học trinh thám Việt Nam với văn học trinh thám thế giới. Đó không chỉ là câu chuyện điều tra, truy tìm tội phạm như một thử thách trí tuệ mà là hành trình thám hiểm đến tận cùng chân tướng tội ác, bạo lực, sự tàn nhẫn và vùng khuất tối của con người.

Từ sau năm 1986, thị trường sách đã dần phục hồi dòng tiểu thuyết tình cảm lãng mạn, nhưng phải đến sau 2000, cùng với không khí sôi nổi của văn học mạng trên khắp các diễn đàn và sự du nhập truyện ngôn tình Trung Quốc, thể loại tiểu thuyết ngôn tình dần chiếm lĩnh thị trường văn học Việt với những tên tuổi ăn khách như Dương Thụy (Oxford thương yêu), Trần Thu Trang (Phải lấy người như anh), Hà Kin (Chuyện tình New York)… Mặc dù truyện ngôn tình thường tuân theo những mô thức tình cảm quen thuộc, cốt truyện đơn giản, dễ theo dõi, ngôn ngữ dễ hiểu nhưng cũng phát huy được thế mạnh từ yếu tố lãng mạn, câu chuyện tình yêu hấp dẫn với tình huống bất ngờ, nhân vật có tính cách, tâm lý gần gũi và thể hiện thế giới nội tâm phong phú, chính vì vậy, nhiều tác phẩm thu hút được đông đảo công chúng.

Ngoài ra, có một xu hướng viết tiểu thuyết sử dụng chất liệu lịch sử trong giới trẻ gần đây như truyện dã sử phiêu lưu (Săn mộ - Hoàng Yến), dã sử ngôn tình (Thượng Dương - Hoàng Yến, Hỏa dực - Thành Châu, Vũ tịch - Trường An), dã sử kiếm hiệp (Bảo kiếm truyền kỳ - Hoàng Tùng, Nam quốc anh hùng truyện - Thiện Ngộ, Bí mật hậu cung - Bùi Anh Tấn), huyền sử (Điệu nhạc trần gian - Hà Thủy Nguyên, Đại Nam dị truyện - Phan Cuồng)… Các xu hướng tiểu thuyết sử dụng chất liệu lịch sử pha trộn với các thể loại đại chúng tuy chịu ảnh hưởng không ít từ văn học đại chúng nước ngoài, đặc biệt là văn học Trung Quốc nhưng đều xuất phát từ tinh thần “yêu sử Việt”, làm tăng sức hấp dẫn của lịch sử đối với giới trẻ.

Sự du nhập dòng văn học giả tưởng từ cuối thế kỷ XX đã tạo nên một cộng đồng người đọc và sáng tác truyện giả tưởng ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI với cả dòng kỳ ảo (fantasy) như Chuyện xứ Lang Biang (Nguyễn Nhật Ánh), Thiên Mã (Hà Thủy Nguyên), Xuyên thấm (Phan Hồn Nhiên) và dòng khoa học viễn tưởng (Science Fiction) như (Những hiệp sĩ Zmen (Bùi Chí Vinh), Huyền thoại lục địa MU (Tô Đức Quỳnh), Người ngủ thuê (Nhật Phi)... Là một loại hình còn khá mới mẻ trong văn học Việt Nam, truyện giả tưởng lặp lại hành trình của tiểu thuyết quốc ngữ từ cuối thế kỷ XIX “đi từ mô phỏng đến sáng tạo, từ vay mượn lại các yếu tố ngoại lai đến khả năng tư duy lại từ bối cảnh xã hội Việt đương thời”. Các tiểu thuyết giả tưởng trong bước đầu hình thành và phát triển đã xóa nhòa đường biên giữa fantasy và sci-fi, kết hợp linh hoạt đôi cánh bay bổng của trí tưởng tượng phong phú và sức mạnh tri thức khoa học tạo nên những tác phẩm mới lạ, hấp dẫn.

Những loại hình tiểu thuyết đại chúng trên đã đáp ứng thị hiếu của một cộng đồng người đọc đương đại, thỏa mãn nhu cầu giải trí và tạo nên sự sôi động của thị trường sách văn học. Điều đáng chú ý là các loại hình tiểu thuyết đại chúng không phải lúc nào cũng dễ dàng phân tách rõ rệt mà có sự pha trộn, phá vỡ những lằn ranh thể loại. Bằng những nỗ lực từ bỏ motif mòn cũ để thử nghiệm lối viết hiện đại, ngôn ngữ giàu tính văn chương, các tiểu thuyết đại chúng cũng có xu hướng vượt qua sự khác biệt giữa cái gọi là văn hóa cao và thấp trong văn hóa đương đại, đúng như tinh thần của chủ nghĩa hậu hiện đại. Sự bùng nổ các loại hình tiểu thuyết đại chúng cho thấy bức tranh phong phú, đa dạng và thoáng mở của văn học Việt Nam từ sau 2000. Đây cũng là một bộ phận tồn tại song song với dòng chủ lưu, tạo nên chỉnh thể của nền văn học.

Ngoài ra, có thể quan sát thấy một số khuynh hướng sáng tác khác như khuynh hướng tìm về bản nguyên với lối viết tự nhiên, chân phác, đào sâu vào cuộc kiếm tìm bản sắc và bản thể (Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Thuần, Nguyễn Vĩnh Tiến…) hay khuynh hướng nữ quyền (Dạ Ngân, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ…). Đây cũng là những khuynh hướng rất đáng chú ý, tuy nhiên chúng tôi sẽ trình bày cụ thể hơn trong một điều kiện khác.

Như vậy, có thể thấy văn học Việt Nam sau 50 năm thống nhất đất nước đã phát triển theo hướng đa dạng hóa, với nhiều khuynh hướng khác nhau. Có những tác phẩm cũng không hoàn toàn xếp vào khuynh hướng này hay kia, hoặc các khuynh hướng cũng không hoàn toàn riêng biệt, tách bạch mà có một sự phân chia tương đối. Nhưng qua các khuynh hướng vận động của văn học chúng ta thấy được những nỗ lực và khát vọng của giới văn chương Việt Nam 50 năm qua. Sự trỗi dậy của mỗi khuynh hướng ở một giai đoạn cụ thể đã đem lại cho văn học những thành tựu đáng ghi nhận. Việc nắm bắt và khuyến khích cũng như tổng kết các khuynh hướng văn học sẽ góp phần thúc đẩy văn học Việt Nam phát triển theo hướng tích cực.

Mời gửi  tác phẩm cho Triển lãm ảnh thời sự - nghệ thuật “Tổ quốc - 80 mùa thu độc lập”

Mời gửi tác phẩm cho Triển lãm ảnh thời sự - nghệ thuật “Tổ quốc - 80 mùa thu độc lập”

Baovannghe.vn - Nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám (19/8/1945-19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945-2/9/2025), Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam đã ra thông báo và kêu gọi các tác giả trên cả nước đóng góp tác phẩm cho Triển lãm ảnh thời sự - nghệ thuật “Tổ quốc - 80 mùa thu độc lập”.
Về trước biển - Thơ Cao Xuân Sơn

Về trước biển - Thơ Cao Xuân Sơn

Baovannghe.vn- Về trước biển, mọi điều thành nhỏ bé/ cánh buồm điên mê, giấc mộng hoang đường
Đại hội Chi bộ Báo Văn nghệ nhiệm kỳ 2025- 2027

Đại hội Chi bộ Báo Văn nghệ nhiệm kỳ 2025- 2027

Baovannghe.vn - Ngày 18/6/2025, Chi bộ Báo Văn nghệ đã long trọng tổ chức Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 2025-2027. Phó Bí thư Đảng ủy Hội Nhà văn Việt Nam, nhà văn Vũ Đảm; Ủy viên Đảng ủy Hội Nhà văn Việt Nam, Nguyễn Quỳnh Phương dự và chỉ đạo Đại hội.
Hình như - Thơ Võ Văn Trực

Hình như - Thơ Võ Văn Trực

Baovannghe.vn- Hình như em đã yêu ta?/ Hay chưa yêu nhỉ? Hay là sắp yêu?
Đẩy mạnh truyền thông về các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước

Đẩy mạnh truyền thông về các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước

Baovannghe.vn - Thứ trưởng Bộ VHTT&DL Trịnh Thị Thủy đã ký văn bản số 2756/BVHTTDL-VHCSGĐTV gửi Sở VHTT&DL, Sở VH&TT các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về công tác tuyên truyền cổ động kỷ niệm các ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước