Khi mở đường qua dãy núi Yên Tử, dưới lớp đất đá, người ta đã tìm thấy những di tích của một làng Việt cổ. Cổ vật tìm thấy gồm đồ sành, sứ, đá, đồ trang sức bằng vàng, bạc… điều thú vị hơn cả phải nói đến một vì cột, kèo nhà bằng gỗ gần như còn nguyên vẹn. Trên đó có những nét trạm trổ, hoa văn phong cách thời Lý. Nếu đúng như vậychúng đã có tuổi thọ đến cả ngàn năm? Sự kiện khiến người ta sững sờ khi nhận ra trên vì cột, kèo đó, các loại gỗ dính liền vào nhau như thể mọc từ một thân. vân gỗ xoan rừng ăn liền vào vân gỗ táu. gỗ lim vân liền mạch cùng vân gỗ trắc, gỗ sến… không máy móc nào phát hiện ra vết mộng, vết ghép của thợ dẫu rất nhỏ.
![]() |
Minh họa. Nguồn: pinterest |
Sự việc không tiền khoáng hậu khiến các nhà khoa học trong và ngoài nước tìm đến. Trước sự thật sờ sờ đó, họ phồng má, trợn mắt ra sức giải thích,chứng minh…nhưng rốt cục, những ý kiến hay hớm của họ bị dân tình ôm bụng, bịt mũi…sau đó lần lượt chui tọt vào thùng rác của lãng quên.
Gần như cùng thời gian tìm thấy cổ vật, trẻ trâu ở đây bỗng nghêu ngao hát lại một bài vè cổ:
ve vẻ vè ve
cái vè " sư bạch"
dạy bỏ lều vách
xẻ gỗ dựng nhà
" thông mộc" thuận hòa
“vững bền như đá”
ấm đông mát hạ
sung sướng muôn đời
trăm họ muôn người
nhớ ơn "sư bạch"
vè ve ve vẻ...
Giờ đây, vì kèo gỗ lạ nọ vẫn nằm ở một góc nhà bảo tàng phủ đầy mạng nhện. nhưng câu vè kì lạ kia, hình như do ông trời đặt vào miệng các thế hệ trẻ trâu vẫn vang lên không dứt. Quái lạ!" Sư Bạch" là ai, "thông mộc" là cái gì? Sao gỗ lại "vững bền như đá"... có sự liên hệ gì giữa người này với vì kèo nhà lạ lùng kia? Phải chăng xưa từng có một tài năng kiệt xuất về nghề mộc xuất hiện trong vùng? Nhưng vì nguyên nhân nào đó giờ đã thất truyền?
Chúng tôi, những người chứng kiến từ đầu cuộc khảo cổ, đã lặn lội khắp vùng để dịch bia đá, gia phả, thần tích, sắc phong, thư tịch cổ… hòng tìm ra sự thật về điều bí ẩn trên, nhưng vô ích… tuy vậy cũng mạnh dạn đưa ra giả thiết dưới đây.
"Sư Bạch" tên thật là Hà Mạnh người làng Bạch Khê. Mạnh là con của tộc trưởng Hà Lầm, một dòng họ lớn trong vùng. Sở dĩ gọi Bạch Khê vì làng nằm bên khe suối nước trong, đá trắng như ngọc. Làng này nằm cạnh sông Nhật Đức bên dãy Yên Tử trùng điệp, ngất trời. Hà Lầm nổi tiếng về võ nghệ và sống nhân đức. tiếc thay, ông mất sớm để lại vợ góa cùng đứa con trai côi cút. Mạnh lớn lên không theo nghiệp võ của cha. Trời phú cho chàng một đôi tay khéo léo của một nghệ nhân. Dưới đôi bàn tay ấy, cành cây, hòn đá… trở nên đắc dụng cùng sinh động lạ thường. Ngày ngày, chàng cùng chúng bạn chăn trâu, cắt cỏ ngoài bãi, trên rừng để giúp đỡ mẹ già. Năm mười bốn tuổi, chàng lấy vợ sau sinh được một bé trai.
Năm Thuận Thiên thứ hai. Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Đại La sau gọi là Thăng Long. Sau khi cho người rước kinh Phật về làm quốc giáo, vua nảy ý định biến Thăng Long thành một kinh đô thật lớn để sánh cùng các lân bang. Để thực hiện việc ấy, vua vét sạch quốc khố cùng sức dân khiến trăm họ bị một phen điêu đứng. Ngài truyền cho người đi khắp nơi tìm người tài, thợ giỏi mang về kinh đô. Chú bé Mạnh người làng Bạch Khê được triệu về kinh lúc chàng mười sáu tuổi.
Chuyện kể rằng một vị quan triều đình đi tuần trên sông Nhật Đức thì gặp mưa. Quan cho dừng thuyền lên bờ trú trong một cái lán của trẻ trâu. Ngài rất ngạc nhiên thấy lán được làm giống như một tổ chim to, có thể quay tứ phía tránh hướng gió tạt. Những tàu lá cọ lợp phía trên có thể quay tròn lúc mưa làm nước không thể hắt vào trong. Tuy chỉ rộng chừng dăm thước mà có thế chứa cả chục người thỏai mái nghỉ ngơi. Sự hiếu kì làm ông quan tìm đến tận nhà người làm ra " tổ chim " nọ. Quan tròn mắt nhìn căn nhà của một mục đồng được sắp xếp, bài trí giản đơn mà gọn gàng đến khó ngờ. Các vật dụng được phù phép bởi một đôi tay cùng bộ óc kì tài sáng chế. Sự việc được báo về kinh. Hà Mạnh được gọi về Thăng Long. Quan tuyển dụng đổi tên là “ trò Bạch”. Sau thành danh gọi là “Sư Bạch”. Tên quê hương nơi đông bắc của chàng.
Năm tháng trôi đi. Từ " thợ con" chàng trở thành "thợ cả". Từ " thợ cả" chàng được làm phụ trách, trông coi mực thước cả trăm thợ giỏi dưới quyền. Các đình chùa, miếu mạo trong kinh thành, từ hoàng thành đến văn miếu...đều in dấu tay chàng. Giờ đây chàng trở thành cánh tay đức lực cho quan phụ trách. Với nết hay lam hay làm cộng với sự khổ luyện. Học được đến đâu chàng đều ghi chép, chôn sâu trong dạ những kỹ xảo, bí truyền… lòng dặn lòng phải mang về trung du giúp dân trăm họ. Quê hương chàng vốn nghèo khó, lầm than. Dân bao đời chui rúc trong những căn lều dột nát, chịu nắng mưa cùng giá rét.
Nhưng cũng từ đây, chàng thực sự hoang mang khi nghĩ đến cảnh sống gửi nơi phồn hoa quyền quý. Chàng nhận thấy biết bao kẻ xuất thân từ bần tiện nay bi bả phú quý, vinh hoa, bị đồng tiền làm lóa mắt. Họ bon chen, quỵ lụy với kẻ trên. Quay mặt khinh miệt người khốn khó. Khi có tí tiền bạc, miếng ăn ngon thì phưỡn bụng khoe giầu. Vênh mặt khoe chức. Sư Bạch buồn rầu cùng lo sợ đến lúc nào đó, không giữ nổi mình mà sa vào cạm bẫy đời như lũ tiểu nhân kia thì phí công cha mẹ cùng bị bia miệng, tiếng xấu để đời.
Một ngày, chàng nói ý định xin hồi hương với quan phụ trách. Vị quan vốn yêu quý chàng như con đẻ chợt thất kinh.
- Ta bạc đãi gì ngươi?
- Thưa đại nhân! Thần xưa là kẻ bần hàn quê kệch, nhờ ơn đại nhân nay mới được nên người. Giờ thần có mẹ già, vợ dại, con thơ nơi hang núi đêm ngày ngóng đợi. Trộm nghĩ làm con phải hiếu đễ. Làm chồng, làm cha phải có nghĩa tình... xin đại nhân minh xét.
Mấy ngày sau, quan cho gọi chàng đến nói rằng:
- Để ngươi đi, ta như mất một cánh tay. Nhưng ai nỡ giữ kẻ đi! Tuy vậy, ta muốn ngươi phải làm xong một việc trước khi được như ý… đoạn lôi ra một bức họa đồ, chỉ vào đó nói:
- Ta đã chọn một nơi đắc địa. Nơi này non xanh, nước biếc. Núi đồi đẹp tựa trong tranh, lại cách quê ngươi không xa. Nay giao cho ngươi ngàn nén bạc, trăm dân phu cùng thợ giỏi. Hãy dựng cho ta một ngôi nhà thật đẹp, tiện lợi. Thi thoảng đến đó cùng uống rượu, ngâm thơ, đánh cờ, câu cá... chả thú lắm sao. Khi làm xong sẽ trọng thưởng!
Sư Bạch liền cúi đầu bái lạy. Quan lại cho lính khiêng ra một súc gỗ bọc vải điều, nói rằng đây là gỗ " vàng tâm long" thứ gỗ cực quý trong kho gỗ của Hoàng thượng, nên đặt ở nơi kính cẩn. Giở tấm khăn điều, mọi người đều lóa mắt vì màu sắc vàng rực của gỗ. Loại gỗ này xưa nay chỉ ban tặng cho các đại thần. Từ thân gỗ tỏa ra mùi thơm ngào ngạt tựa hương hoa.
Để tỏ lòng thành với quan phụ trách, Sư Bạch háo hức bắt tay vào việc. Chàng đốc thúc thợ cùng dân phu làm suốt ngày đêm, mong được sớm được về đoàn tụ với gia đình.
Thời gian sau đó, người đi trên đường cái quan qua vùng này buộc phải dừng lại mà ngắm nhìn một khu nhà mới dựng đẹp đến ngỡ ngàng. Nơi đây, trên một thảo nguyên cỏ mượt như nhung hiện ra một con đường trải cát vàng cùng cuội trắng. Con đường mềm mại dẫn đến một cây cầu hình bán nguyệt điệu đà uốn mình qua dòng suối trong vắt. Hai bên suối, chen chúc những khóm cây được cắt tỉa công phu mang nhiều dáng, thế kì lạ được điểm xuyết bằng những thảm hoa ngàn sắc. Phía sau khuôn viên, trên thảm cỏ xanh bất tận, người ta trồng những khóm dẻ lụa, những hàng phượng vĩ, trắc bá xum xuê. Cạnh đó, bạt ngàn sim rừng, ổi dại… cho mục đồng trong vùng đến chăn trâu, thả diều...
Tuy vậy, tác phẩm chính tức căn nhà vẫn chưa hoàn thành. Sư Bạch cho dựng một ngôi nhà ba gian, hai chái theo đúng phong cách miền cao quê chàng. Ngôi nhà sẽ gồm ba gian phòng. Phòng chính giữa để thờ tự, hai phòng để chủ nhà nghỉ ngơi. Bên chái phải trái làm bếp, bên kia là nơi chứa nông cụ. Trên mái được lợp bằng ngói âm dương, tường nhà được xây bằng đá núi xẻ. Liên kết đá tường bằng cát đỏ trộn với bột đá vôi cùng mật mía. Trong khuôn viên, Sư Bạch cho thợ tạc đá cảnh các sinh hoạt văn hóa vùng cao. Những nông cụ, trang phục nam nữ, các điệu múa sinh tiền, múa khèn, hát đúm, hát soóng cộ, hát then cùng hát soong hao. những người thợ đục đá tài hoa làm việc suốt ngày đêm, cho đến một ngày họ bàng hoàng nhận ra trên những bức tranh đá kia chính là hồn của rừng núi Việt.
Những ngày này, lòng Sư Bạch rạo rực khôn tả. Nỗi nhớ nhà như vơi đi, nhường cho niềm vui làm được một ngôi nhà ngay trên quê hương chàng. Một hình mẫu cho tương lai, ngõ hầu thay đổi được hình dáng một vùng quê vốn bao đời nghèo khó. Đó là điều chàng ấp ủ bấy nay. Chàng hy vọng tạo ra một vùng hội tụ niềm vui cùng hạnh phúc, niềm tự hào của đất trung du. Nơi đây, trời đất giao hòa, vượng khí ngập tràn, chủ nhà sống an lành cùng bách niên giai lão. Cũng nơi đây, đất lành khiến muông thú tìm đến trú thân. Chim chóc sẽ làm tổ trước hiên nhà. Hươu nai nhởn nhơ ngoài vườn gặm cỏ. Gấu, khỉ sẽ mò vào tận bếp ăn vụng cơm nguội, tu trộm mật ong rồi lăn ra ngủ trước thềm.
Với tài năng phát lộ, giờ đây nhìn lên trời, chàng biết vận hội quốc gia. Nhìn xuống đất, chàng biết mùa màng bội thu hay thất bát. Nhìn người chàng biết hạn tử sinh. Nghe giọng người, chàng biết lòng, biết dạ. nghề mộc trong tay chàng chừng như đạt đến đỉnh điểm, nhìn cách đứng của thợ cưa, chàng biết mạch cưa thẳng hay vặn vẹo. Nghe tiếng đục, chàng biết tay nghề người thợ, biết họ đang đục gỗ gì. Que củi, hòn sỏi trong tay chàng vạch ra là chuẩn mực đến từng li, từng tấc. Liếc nhìn nhà, chàng biết chủ thấp cao, đọc ra tính nết họ. Gõ một nhát búa vào cột, chàng đọc ra vận mệnh, tuổi thọ của nhà. Bao tháng năm nghiền ngẫm, tìm tòi, chàng đã học được bí truyền trong nghề, đó là thuật " thông mộc".
Thực ra " thông mộc" không phải pháp thuật thần bí. Nó chỉ đơn thuần gồm sự hiểu biết về thổ mộc. Là nghệ thuật sắp xếp gỗ lạt trong khi dựng nhà, theo một trình tự. Việc này đã nhiều người làm được, dù chưa hiểu " thông mộc". Sư Bạch biết rằng xưa nay mọi vật, cây cỏ vốn sinh ra từ đất, được nuôi bằng " âm địa khí", cùng dưỡng bằng" thiên dương khí". Gỗ, nguyên liệu chính làm nhà được xem xét thật kĩ lưỡng. Những cây thân mộc sinh ra trong tự nhiên cũng có đời sống cùng tinh anh. Khi già và lìa gốc nó vẫn tàng trữ trong mình tinh túy của đời cây. Khi này, trong thân cây, từng đường vân, thớ gỗ, nhựa ...đông kết tạm ngưng nghỉ đợi thời. Lúc sử dụng dựng nhà, chúng được gắt gọt, ghép với nhau liên kết trong một hình thể mới. Sự kết hợp ấy vô tình đánh thức tiềm năng gỗ. Bị kim khí kích thích, hồn gỗ thức giấc. Chúng bị cọ sát dẫn đến hút, đẩy nhau… sau tạo ra mạch chuyển động mỗi lúc một lớn dần. Khi này, âm địa khí vốn là máu, linh hồn của đất. Dòng mạch bất tận ấy khi được thiện tâm mời gọi liền tự thanh lọc hết hư khí, trở thành tinh tuyền. Sau liền lan tỏa, luân chuyển qua mạch gỗ thuần khiết, lên giao hòa với thiên dương khí để tỏa vượng khí nuôi dưỡng, phô trợ con người, phò trợ thế gian.
Người thợ giỏi khi phạt mộc dựng nhà phải biết chọn gỗ tương ứng về tuổi cây, độ bền, tươi, khô... để sắp xếp theo trình tự từ cột, đố đến xà ngang, hoành, trụ, nóc... thuận từ hạ mộc đến trung mộc, thượng mộc. Phải xác định gốc, ngọn, cành để đặt theo phương hòa, hướng thuận. Nếu sơ ý, làm ẩu dễ, dẫn đến " nghịch mộc". Việc ấy theo dân gian gọi là tán khí, song ngà... dẫn đến " thông mộc" chậm. khi ấy gỗ giãn nở không đều, dễ cong nứt sau hút ẩm mà nhanh mục nát. Ở trong những ngôi nhà " nghịch mộc" thường ngột ngạt hay lạnh lẽo dễ sinh bệnh tật. Người ở đây thường hay đau ốm, làm ăn khó nhọc, tính tình gắt gỏng. Phải rất lâu, có khi đến một hai đời bươn trải nhọc nhằn mới có thể khá giả. Trong khi ở những ngôi nhà "thuận mộc" dường như được vượng khí phụ trì: gia cảnh yên ấm, vui vẻ quanh năm. Về mùa đông, bước chân vào trong nhà ấm áp tựa hồ có một bếp than hồng. Mùa hạ lại thấy mát mẻ như thể có hơi nước tỏa ra. Khi nằm ngủ, người ta tĩnh tâm, sau có những giấc mơ đẹp và lành. Sống tại đây, những người chủ nhà khoan hòa, nhân hậu lại quyết đoán trong làm ăn, giao tiếp.Hhọ mạnh mẽ về sinh lực, tạo ra sức hút kì lạ với phái đẹp. Những người phụ nữ thì nết na, chăm chỉ, chung thủy cùng sinh đẻ con đàn, cháu đống. Sống trong những ngôi nhà "thuận mộc" phúc lộc dư tràn, làm ăn thuận lợi, no ấm quanh năm. Những người con trai được sinh ra thông tuệ, có sức mạnh cùng lòng dạ trắc ẩn, thẳng ngay. Họ vừa hiếu với mẹ cha, trung trinh với nước lại yêu thương con người. Các cô gái được sinh ra có dung nhan xinh đẹp, nói năng phải lời, đoan trang cùng quý phái.
Nhà được "thông mộc" trở thành pháo đài che chở, dưỡng dục cái thanh cao, đức độ. Trấn áp, loại trừ cái thấp hèn, ti tiện. Kẻ tà tâm đến hay đi qua đây đều khiếp sợ hoặc bị quy phục bởi lòng lành.
Sư Bạch thú vị nhận ra căn nhà, tổ ấm mọi gia đình chẳng khác gì một giang sơn thu nhỏ. Nền móng, cột trụ chính là muôn dân. Trung mộc tức trí tuệ triều đình, quốc thể. Con mắt nhà là cửa. Tường vách là quân binh. Nóc giữ vai trò điều tiết chính của quốc vương, hoàng thượng...chàng còn được biết trong một lãnh thổ đều có vùng đắc địa. Ở đó tích tụ khí thiêng là nơi có thể dựng một ngôi nhà lý tưởng. Nơi ấy, âm khí thịnh giao hòa cùng dương khí vượng tăng trưởng không ngừng. Khí thuận, đất thuận, thuận lòng trăm họ thành viên mãn, thăng hoa. Đỉnh điểm của "thông mộc" tạo ra kì tích lạ lùng. Dường như linh khí tạo ra một loại keo thần khiến các thân gỗ liền với nhau như từ một gốc. Sau rắn như đá, bền vững cả ngàn năm.
Và đêm nay, Sư Bạch bỗng bồn chồn. Chàng đi đi, lại lại quanh ngôi nhà mới toanh. Sự phấn khích khiến chàng miết tay vào cột gỗ, ép má vào cánh cửa còn thơm phảng phức mùi gỗ, mùi sơn. Ngả người xuống nền đá hoa cương nhẵn thín, mát lạnh, chàng nghĩ đến ngày mai, ngày chàng tạm biệt nơi đây, giao nó cho đại quan để về với gia đình. Chàng nóng lòng đợi đến giờ tý canh ba sẽ thắp một nén hương trình trời đất. Đó là thời khắc giao hòa của ngày mới, sự "thông mộc" sẽ bắt đầu. Sư bạch hình dung ra khuôn mặt rạng rỡ của quan phụ trách cùng những lời ngợi khen. Trong thẳm sâu của tâm trí, chàng còn mơ hồ linh cảm đây là linh địa của đất Việt. Biết đâu đây chính là ngôi nhà viên mãn. Từ đây tiếng tăm sẽ bay khắp vùng. Chàng đã trả nghĩa được quan trên, trả nghĩa được cuộc đời.
Dựa lưng vào cột hiên nhà, Sư Bạch nhắm mắt đợi đến khắc canh ba. Dường như những cơn mộng mị khiến chàng co quắp, vật vã cho đến lúc tên gia nhân gọi:
- Thưa đại sư! Đã giờ tí...
Chàng vùng dậy sau một cơn ác mộng. Liếc nhìn đồng hồ cát thấy đã nửa đêm. Chàng bần thần nghĩ đến sự liên hệ với giấc mơ nọ, nhưng chép miệng tự an ủi rằng chẳng qua chỉ là mộng mị. đã đến giờ chàng thắp hương cho căn nhà " thông mộc".
Bó hương tắt mấy lần, sau lại ngùn ngụt cháy. Mùi trầm hương thơm ngát tỏa ra làm sư bạch khoan khoái giũ sạch nghi hoặc, âu lo. Bởi chăng chỉ ít phút nữa thôi sự huyền diệu tự căn nhà sẽ xóa đi tất cả băn khoăn, lo lắng, nhọc nhằn bấy nay. Trước ban thờ, chàng cúi đầu yên lặng.
Một tiếng nổ dậy đất, khiến Sư Bạch suýt bật ngửa. Căn nhà trên đầu chàng run lên bần bật trong tiếng nổ đôm đốp, răng rắc. Trong giây lát thế gian tưởng chừng vỡ vụn. Các cột nhà nẩy lên, bật ra khỏi đá tảng. Cửa lớn, cửa nhỏ nhất loạt sập mở rầm rầm bởi một cơn gió lạ. Cả kinh, Sư Bạch co rúm người, giơ tay ôm đầu. Nhưng cũng chỉ chớp mắt, bốn bề lại lặng ngắt như tờ. Chàng biết rằng có sơ suất nào đó rất nghiêm trọng đã xảy ra. Tai họa đang ập đến. Chàng không tin ở mắt mình khi nhìn thấy từ nóc nhà, nơi mộng ghép của chồng nóc, một dòng nước đen sì, đặc sánh như máu ròng ròng nhỏ xuống nơi thờ tự. Chàng vội vã trèo lên soi đèn nhìn cho rõ, thì thấy cây chồng nóc vẫn roi rói vàng tươi nhưng khi sờ tay vào chàng vội rụt ngay lại bởi cảm giác đụng vào thân rắn. Nó lạnh ngắt, nhớp nháp, thoang thoảng mùi tử khí. Chàng kinh hãi nhảy vội xuống hét lên.
- Chính nó! Khúc gỗ ma... Trời ơi!
Trình tự, diễn biến từ lúc phạt mộc làm căn nhà lướt trong trí chàng nhanh như chớp. Cũng từng ấy khoảnh khắc, tất cả sự bất thường đều hướng tới súc gỗ lạ bọc vải điều do bề trên ban tặng. Sư Bạch quên bẵng những điều thày dạy chàng khi chọn, lấy mực cho cây chồng nóc. Ấy là nơi quan trọng bậc nhất, huyệt điểm của nhà gỗ. Lời dạy rằng phải xem xét thật kỹ, lật đi lật lại đủ mười lần để chọn loại gỗ cùng tìm chiều thuận bởi điều này quyết định số phận của căn nhà. Theo thuật "thông mộc", đây là thượng mộc nằm ngay giữa nhà, nơi đặt bàn thờ tiên tổ. Gỗ đặt chồng nóc không nhất thiết phải cực tốt, nhưng thuần khiết, nhẹ nhàng. Khi bật mực, đục đẽo không nên làm lúc tối, đêm… phải làm vào buổi ban mai. Tiếc thay, chàng đã cả tin giao cho người sư phó xử lý khúc gỗ lạ mà không hề xem xét lại. Giờ người sư phó đã biến mất. Còn nhớ đã một lần có kẻ thưa rằng khúc gỗ quý ấy vừa mềm, vừa cứng, giản nở bất thường và đôi khi bốc mùi tanh tưởi, hôi thối. Chàng đã cả cười nói rằng gỗ trên ban tất nhiên phải quý, không được phép xúc xiểm hỗn láo. Vả chăng gỗ quý phải luộc kỹ, ngâm bùn nên có mùi cũng chuyện thường. Từ ấy, cánh thợ im thin thít.
Sư Bạch bỗng hiểu ra những linh cảm của chàng đã đúng. Ngôi nhà đã bị yểm bùa từ chính khúc gỗ của bề trên ban tặng. Chàng lờ mờ nhớ lại chuyện nhà ma ám. Những ngôi nhà này luôn có một khúc gỗ bị kẻ ác yểm bùa độc. Đây không hẳn là gỗ, nó thường được chế tác bằng độc dược, tà vật... sau bôi son, trát phấn để đánh lừa mắt người. Tác dụng của bùa độc, còn gọi là "ám độc" rất lợi hại. Tai họa nó gây ra không thể lường hết được. Điều ghê sợ hơn cả khi những vật này nằm trong kho quốc bảo.
Sư Bạch nắm chặt tay cảm thấy xương cốt đang gãy vụn. Sau chàng, khắp nhà, những tiếng nổ lục bục vẫn vang lên không dứt. Chàng hiểu giờ đây cột kèo thuần khiết đang ra sức kháng cự lại ám khí lan ra từ cây gỗ ma. Tiếng nổ lúc đầu còn mạnh, sau yếu dần, có lúc như ngừng lại vì đuối sức. Rõ ràng khi ám khí uy hiếp được ngôi nhà, sẽ lan nhanh xuống làm lòng đất nhiễm bẩn, đất lành dần dần chịu đồng hóa mà biến thành đất dữ. Đất dữ sẽ lại mọc lên nhà dữ. Cái ác tiếp cái ác lan tràn khắp sứ sở như cỏ dại gặp mưa.
Tiếc rằng giờ đã quá muộn. Ngày giờ giao nhà cho đại quan sắp đến gần. Những cánh thợ đã lần lượt trở về quê, chỉ còn mình chàng cùng mươi gia nhân ở lại. Vả chăng "thông mộc" đã bị phá. Ma thuật đang thắng thế. Âm khí bị đứt đoạn thông hành khiến hạ mộc mất hướng, rối loạn. Ám mộc nắm giữ chức năng thống trị phun tà khí làm trung mộc tê liệt, sau đồng hóa mà trở thành kẻ thông đồng, phản phúc. Lúc ấy dương khí bỗng nhiên trở mặt, cổ súy, dung túng, phò trợ cho mộc ám khiến nó càng được thể hoành hành dữ tợn. Dĩ nhiên những thân gỗ Việt trung trinh, vốn tắm mình trong sương gió, hưởng ân huệ của trời đất cả trăm năm không dễ khuất phục. Chúng vẫn kháng cự trong tuyệt vọng. Nhiều thân gỗ bị tà khí giết chết từ trong gan ruột, sau bị mối mọt, bị mục nát dần. Tuy vậy, cuộc phản kháng vẫn không ngừng, không nghỉ. Có dịp ghé tai vào những thân gỗ hà hổng này, người ta còn nghe rõ tiếng phì phò của cuộc vật lộn giữa thế lực hắc ám với kẻ trung thần.
Những nhà bị " nghịch mộc" hoặc " tán khí", " song ngà"… chỉ mang đến cho gia chủ những khó khăn nhất thời. Nhưng nhà bị "mộc ám" là ma quỷ, là địa ngục. nó đưa đến diệt vong.
Với bản chất quỷ ám, không khí trong những nhà này nóng lạnh bất thường. Gia chủ của nó bỗng trở lên kiêu căng, tự phụ, sống nhơn nhơn vô cảm tự coi mình là thần thánh, không đếm xỉa gì đến danh dự và nhân phẩm. Những người đàn bà sống ở đây rặt một loại tà tâm, ác khẩu, dâm dật, lắm điều. Trẻ con sinh ra trong ngôi nhà " mộc ám" đầu óc ngu tối, lấy ăn làm ích. Lớn lên rặt một lũ tôi đòi sống hèn hạ và cam chịu. Được dung dưỡng bởi cái ác, cái thú tính, đó chính là hiện thân của những thế hệ đầu trộm, đuôi cướp cùng giết người không biết ghê tay.
Sư Bạch run cầm cập như lên cơn sốt. Chàng vô tình đã tiếp tay, gây "mộc ám". Tai họa khủng khiếp này sẽ phá nát từ trong trứng truyền thống văn hóa Việt. suốt một đời cặm cụi vun vén, ai dè một phút trắng tay.
Tiếng vó ngựa dồn dập ngoài đường cái quan khiến Sư Bạch vùng dậy, lao ra cổng. Chàng nhận ra một toán lính kị mã mang cờ hiệu của triều đình. Viên quan xướng gọi tên chàng nhận chiếu chỉ. Sư Bạch quỳ xuống, bỗng chết lặng. Theo chiếu chỉ: để trả công cho sự mẫn cán của chàng bấy nay, Hoàng thượng bèn phong cho chức quan trạng danh dự nghề mộc. Tên chàng lập tức được khắc vào bia đá. Từ nay căn nhà này cùng cả vùng đất bao quanh đôi chục dặm, sẽ thuộc về chàng cùng con cháu mãi mãi.
Sự việc diễn ra bất ngờ làm Sư Bạch không kịp trở tay. Chàng lảo đảo như sắp gục ngã, bởi tự dưng bị dồn đến bước đường cùng. Đúng hơn là bị thanh gươm ngu trung vác nặng nhọc bấy nay đang kề cổ. Nó bắt chàng phải lựa chọn: một là mắc tội phạm thượng vì cưỡng lại bề trên. Việc ấy kèm theo cái chết. Hai là cúi đầu, câm miệng đẩy thân mẫu, hiền thê... cùng họ hàng, con cháu chui vào cạm bẫy gian tà ,vào địa ngục.
Nhưng không. Một lần nữa, người con trai của núi rừng trung du vốn lòng ngay dạ thẳng vùng dậy hét lên. Không! Chàng không thể sát hại chính gia đình mình. Không thể song hành cùng mê muội. Bởi chăng, chàng không thể nhẫn tâm làm hại mảnh đất thiêng đã thấm đẫm mồ hôi, nước mắt, máu thịt của tiền nhân dẫu một ngàn lần phải chết. Khi này, thiên nhãn mở mắt cho chàng nhận ra sự quằn quại của linh địa dưới chân. Bên tai chàng vọng vang muôn tiếng gào thét của tha nhân đang đứng trước vòng tuyệt diệt.
Đám người ngựa đã đi khuất mà Sư Bạch vẫn còn gục đầu xuống đất. Nhưng chàng chợt vùng dậy, quay lại ngôi nhà quỷ ám. Chàng gầm lên như sấm ra lệnh cho gia nhân chất củi đuốc, đổ dầu sơn, hỏa hổ... đoạn ra lệnh phóng hỏa. Trong chớp mắt, chàng dùng hết công lực phi phàm, nhảy vọt lên, tung một cước chân khủng khiếp đạp tung cây gỗ ma cội nguồn của tội ác. Thanh chồng nóc bị thần lực đạp bay ra khỏi nóc nhà đang cháy ngùn ngụt. Thật bất ngờ, nó bỗng rít lên như một cơ thể sống, hiện nguyên hình thành mãng xà mào đỏ. Con quái vật trúng thương, đau đớn lao đi rẽ đất, sau khuất ở phía cánh rừng già.
Không chậm chễ, Sư Bgiục gia nhân lên ngựa, lập tức quay trở lại Bạch Khê. một mình chàng dừng lại bên căn nhà đang bốc cháy.
Kì lạ thay, lửa khói ngất trời giờ đây như không phải là thứ lửa khói chiến tranh, của tàn phá vốn hung tợn, dữ dằn. Lửa vẫn bừng bừng nhưng là lửa của hò reo, náo nức... của niềm vui bất tận dâng trào. Như thể lửa của lòng dân trước cơn nguy biến, quyết một phen hiến thân thiêu ra tro cái mầm mống ác tà. Lửa cháy như thể gieo vào lòng người ta niềm hy vọng. Như đông tàn báo hiệu xuân về. Để nơi đây lại sẽ mọc lên những ngôi nhà thuần khiết, " thông mộc" cho cư dân Việt. Những tổ ấm biết dựng khi thuận trời, thuận đất, thuận tâm. Khi ấy: cái tôi nhỏ bé biết hòa vào cái chúng tôi lớn lao. Cái chúng tôi giới hạn biết hòa nhập vào cái chúng ta vô hạn. Như tiểu ngã hữu hạn hòa vào đại ngã vô biên. Đó là thời đại thái bình, thịnh trị.
Sư Bạch ra roi giục ngựa đuổi theo đám gia nhân cũng là lúc phía sau chàng rung chuyển bởi một cơn địa chấn. Ngoảnh lại, chàng nhận ra tất cả đã biến thành bình địa.
VN17+18/2016