Hồi lúc còn ở ngoài Bắc - công tác tại Hội Nhà văn, tôi có làm biên tập văn xuôi ở Tuần báo Văn học, lối cuối năm 1958 sang 1959, khi báo “Văn” “gặp chuyện” mà đổi măng-sét thành “Văn học”, vẫn là cơ quan của Hội Nhà văn Việt Nam.
Sự làm báo ở Hội ta khi ấy hầu như đã thành lệ luân phiên đổi kíp, người đi viết về thì phải gánh công việc cho người khác đi, chứ không có ai được đi, được viết hoài. Đối với tôi, việc tham gia làm báo xen kẽ như vậy chẳng những không làm tôi lấn cấn, mà còn khiến tôi thích thú. Ít năm sau, tức là vào năm 1962, tôi trở về Nam. Sau nhiều tháng vượt Trường Sơn, tôi về tới Hội Văn nghệ Giải phóng. Anh Lý Văn Sâm khoe với tôi tờ Tạp chí “Văn nghệ Giải phóng” mới ra được vài số đầu. Đứng tên chủ nhiệm là bác Trần Hữu Trang, chủ tịch Hội, còn Tổng biên tập là anh Lý Văn Sâm (khi đó gọi là Thư ký tòa soạn chứ chưa gọi là Tổng biên tập).
![]() |
Nhà văn Anh Đức. Ảnh Vietnamnet |
Số 1 tạp chí “Văn nghệ Giải phóng” in “Stencil”, gồm một số truyện ngắn, bút ký của anh em các địa phương miền Nam, đồng thời có cả vài cây bút ở miền Bắc. Thơ thì thấy có thơ của Thanh Hải, Giang Nam. Bài phi lộ nằm dưới dạng tùy bút tiểu luận ký tên tạp chí, nhưng do Lý Văn Sâm viết. Anh bảo tôi: “Xưa nay tôi chỉ viết truyện, nay viết loại nầy không quen, đọc đừng cười nghen!”. Tôi làm sao có thể cười được. Tờ tạp chí “Văn nghệ Giải phóng” số đầu dù được in ra thô sơ bằng giấp sáp, nhưng đó là tiếng nói của văn nghệ cách mạng miền Nam, là mồ hôi, máu và nước mắt. Hằng ngày các anh trong tòa soạn phải đi đào củ “chụp” ăn thay gạo, viết bài trên những cái bàn bên lại bằng cây rừng, và anh nào cũng bị các cơn sốt rét hành hạ mà thuốc men lại không có. Những bài văn bài thơ trong đó được viết ra trong thời đen tối, trong hồi vùng dậy. Không màu mè, không có nhiều kỹ thuật kỹ xảo nhưng có đầy đủ ý chí và tinh thần quật khởi. Thơ Thanh Hải được làm ra lúc anh còn đi làm giao liên. Thơ Giang Nam viết ra hồi anh đi làm cu ly đập đá... Cầm mấy số tạp chí “Văn nghệ Giải phóng” ấy tôi vừa mừng, vừa thương, lòng dấy lên nỗi xót xa cùng niềm hy vọng. Tôi nói với anh Lý Văn Sâm rằng nhứt định phải đưa tờ tạp chí lên, các số sau phải in typo, phải trình bày đẹp hơn và phát hành rộng rãi khắp miền Nam. Nhưng bản thân tôi thì chưa thể phụ tiếp cho tờ tạp chí, vì tôi còn phải đi và viết...
Tôi đi về miền Tây Nam Bộ. Trong thời gian hai năm, tôi vẫn thường nhận được Tạp chí “Văn nghệ Giải phóng”. Tờ báo đã khá hơn, từ bài vở tới trình bày, in ấn. Đã in bằng chữ chì, tuy mỗi lần in chưa được nhiều, cỡ hai ngàn bản. Lúc ấy anh Tâm Nhàn tức Nguyễn Văn Bổng, ngoài công việc lãnh đạo ở cương vị là Trưởng tiểu ban Văn nghệ, đã trực tiếp làm Tổng biên tập. Tới lúc tôi từ miền Tây trở về R, thì tờ báo đã đi vào nề nếp - in tại Nhà in Trần Phú, là nhà in tổng hợp của Ban tuyên huấn Trung ương Cục - Sau giai đoạn anh Bổng phụ trách, đã đưa tờ báo lên một bước, thì anh đi xuống Cà Mau. Tới phiên anh Giang Nam lo. Khi đó tôi còn phải viết cho xong cuốn tiểu thuyết. Viết xong quyển “Hòn Đất” rồi, tôi cùng một số anh đi viết truyện anh hùng nhân Đại hội anh hùng lần thứ nhất. Mãi tới khoảng năm 1965, 1966, khi đã làm xong một phần việc sáng tác, tôi được phân công làm tờ “Văn nghệ Giải phóng”. Tôi không nhớ tôi đã làm bao lâu, đã làm bao nhiêu số, chỉ nhớ là đã cáng đáng một giai đoạn hơi dài. Do tính cầu toàn, tôi chưa ưng ý với cái “măng-sét” cũ và cả với khuôn khổ cũ, tôi đã thay đổi khổ, đưa tờ báo khổ hơi rộng thành khổ hẹp hơn. Tự tôi ngồi hỳ hục kẻ “măng-sét” mới, kẻ hư cái này liền xé bỏ kẻ cái khác, cuối cùng đạt tới một cái ưng ý, cho làm bản kẽm để in lâu dài. Cái “măng-sét” đó tồn tại mãi cho đến khi tôi thôi làm, ra Bắc dưỡng bệnh, lúc cuộc chiến gần kết thúc. Tòa soạn chúng tôi chỉ có vài người. Bài vở do tôi chọn, biên tập luôn, sau đó cho đánh máy chuyển đến các họa sĩ vẽ minh họa và khắc bản gỗ. Phụ tiếp với tôi và thực hiện in ấn đầu tiên có anh Phan Thế Hy, về sau có vợ tôi và cả Lê Anh Xuân từ ngoài Bắc về. Làm tờ tạp chí này vừa cực lại vừa vui. Cực là mình phải vừa đi tải gạo, đào hầm, chầm lá trung quân lợp nhà, chọn bài in, viết bài, rồi khi đưa xuống nhà in ở cách xa hàng buổi đường, mình phải bám nhà in, “cò” sửa bài tận cho đến khi in ra. Được cái là làm báo lúc ấy khỏi phải lo gì về giấy in, về phát hành, nghĩa là khỏi lo gì về sự hạch toán lời lỗ, đến cả tiền nhuận bút cũng khỏi phát ra. Một khi tờ báo in xong, ngoài vài trăm số đưa về Hội Văn nghệ Giải phóng để gởi các cơ quan ở R, thì nhà in lãnh phần phát hành tới các địa phương, các đơn vị bộ đội. Tạp chí “Văn nghệ Giải phóng” lần lần trở thành tờ tạp chí được phổ biến khá rộng rãi, và ngày càng tập hợp được nhiều cây bút cộng tác viên ở khắp chiến trường miền Nam. Chúng tôi đã vui mừng và xúc động nhận được bài tận ngoài miền Trung và cực Nam Trung Bộ. Như truyện “Bức thư làng Mục” của anh Nguyễn Chí Trung, như “Gió vịnh Cam Ranh” của Nam Hà. Từ khu Tây Nam Bộ, chúng tôi nhận được truyện ngắn, bút ký của anh Lê Vĩnh Hòa, thơ của Nguyễn Bá... Hồi đó bản thảo phải đi theo đường dây giao liên. Đến được tòa soạn ở rừng miền Đông của chúng tôi, bản thảo đã đi qua các cuộc phục kích, đi qua lửa đạn, qua sông, qua lộ. Cho nên khi đến tay, chúng tôi rất quý trọng, đọc kỹ, sửa kỹ, chăm sóc, o bế để đăng cho được.
Đang lúc xuôi chiều mát mái thì năm 1967, Mỹ mở trận càn lớn “Giôn-xơn xi-ty”, trực thăng Mỹ đổ xuống một cái trảng rừng sát nhà in Trần Phú. Chúng xông được vô cứ, lấy được máy in, cho trực thăng cẩu đem đi. Do sự cố ấy, khi tan trận càn, một số báo và tạp chí “Văn nghệ Giải phóng” bị ngưng lại, không in được. Để ra được báo, chúng tôi phải cử anh Phan Thế Hy đem bài vở xuống in nhờ ở Long An. In được vài số thì trong một trận càn ở Long An, anh Hy hy sinh. Anh Hy là người ở tòa soạn, chết lúc mới ngoài hai mươi tuổi. Anh cũng đã làm thơ, viết văn nhưng thầm lặng làm công việc của một người đi thực hiện in ấn, chữa bài. Vợ tôi và Lê Anh Xuân cũng đã làm công việc đó một thời gian. Hôm Lê Anh Xuân đi xuống chiến trường vùng phụ cận Sài Gòn, anh ăn cơm bên nhà tôi, sau đó đưa cho tôi bài thơ nhan đề “Anh giải phóng quân” để tôi coi và cho đăng vào tạp chí. Tôi thấy bài thơ rất khá, nhưng tên nghe không nổi bật, nên sửa lại là “Dáng đứng Việt Nam”. Bài thơ ấy đăng trên “Văn nghệ Giải phóng”, nhưng Lê Anh Xuân không nhìn thấy vì chỉ mười lăm ngày sau anh đã hy sinh nơi một cánh đồng sát lộ 4.
…Tôi làm tờ “Văn nghệ Giải phóng” cho tới năm 1974 thì cùng vợ con ra Bắc dưỡng và trị bệnh, vì chúng tôi ở chiến trường quá lâu, bị sốt rét liên miên làm cho sức khỏe sa sút. Sau đó anh Hoài Vũ phụ trách, cho tới ngày giải phóng. Sau giải phóng, tờ tạp chí vẫn còn tiếp tục trên một năm mới thôi...
Điều đáng tiếc là cho tới hôm nay, tôi không còn giữ được tờ “Văn nghệ Giải phóng” nào. Chỉ có anh Trần Bạch Đằng là còn cất giữ, đóng thành tập.
Nguồn: Kỷ yếu 75 năm Báo Văn nghệ ra số đầu tiên