I. DẪN NHẬP
Sau năm 1975, văn học Việt Nam bước vào một giai đoạn mới với nhiều biến động và thử thách. Trong dòng chảy ấy, cùng với những thành tựu về thể loại, đề tài, tư duy nghệ thuật, đáng chú ý là sự xuất hiện và bung nở của những tay bút “đa năng” - những chủ thể sáng tạo không chỉ gắn bó với một địa hạt duy nhất mà còn hiện diện, tỏa sáng trong nhiều phương diện khác nhau của đời sống văn học. Đó là những người viết “nhiều trong một”: vừa là nhà văn/ nhà thơ, vừa là dịch giả, vừa là nhà nghiên cứu lí luận; vừa khai phá chiều sâu bản thể con người, vừa kiến tạo những cầu nối văn hóa; vừa tiếp nhận tri thức học thuật thế giới, vừa sáng tạo những giá trị thẩm mĩ riêng cho văn chương Việt Nam.
Chính sự đa năng ấy đã góp phần quan trọng làm nên diện mạo mới của văn học Việt Nam đương đại. Nó giúp văn học nước ta không chỉ làm giàu cho chính mình bằng những sáng tác giàu cá tính nghệ thuật mà còn có cơ hội đối thoại, tương tác với các nền văn học khác trong bối cảnh toàn cầu hóa. Ở những gương mặt ấy, ta nhận ra không chỉ một cái tôi nghệ sĩ sáng tạo mà còn cả một cái tôi học giả, một cái tôi trung gian văn hóa, một cái tôi phản biện xã hội. Nhờ vậy, văn học sau 1975 có thêm sức mạnh để mở rộng biên độ phản ánh, đào sâu khả năng truy vấn bản thể và thắp sáng ý nghĩa nhân văn của tồn tại.
Trong số những tay bút “đa năng”, “nhiều trong một” đó, Trương Đăng Dung nổi bật như một trường hợp đặc biệt. Ông là thi sĩ của những ám ảnh hiện sinh, là dịch giả tiên phong đưa Truyện Kiều ra thế giới, là nhà nghiên cứu lí luận uyên bác với nhiều công trình có giá trị. Trương Đăng Dung, với tư cách một nhân vật “đa năng”, vừa góp phần kiến tạo diện mạo lí luận văn học Việt Nam hiện đại, vừa đem lại cho thi ca Việt một tiếng nói riêng tư, triết luận và ám ảnh, vừa mở ra những đường biên đối thoại văn hóa xuyên quốc gia. Từ đó, ông đã ghi một dấu ấn không thể thiếu trong bức tranh thành tựu chung của văn học Việt Nam sau 1975.
![]() |
| Nhà văn Trường Đăng Dung |
II. NỘI DUNG
1. Trương Đăng Dung - một con người văn chương toàn tòng
Thế giới bấp bênh/ những ý nghĩa thoả thuận là hai câu thơ cuối bài thơ Thoả thuận nằm cuối tập thơ Những kỉ niệm tưởng tượng của Trương Đăng Dung do Nhà xuất bản Thế giới ấn hành năm 2011. Không phải ngẫu nhiên mà ông đã đặt hai câu thơ trên ở vị trí cuối cùng tập thơ tâm huyết của mình. Hai câu thơ này phản ánh khá cơ bản tinh thần cái viết của Trương Đăng Dung, từ dịch thuật đến thơ đến nghiên cứu lí luận: vừa gói nén vừa phơi mở những suy niệm triết học (triết học ngôn ngữ, triết học hiện tượng luận…) về thế giới nói chung, về cơ chế tạo nghĩa của văn bản văn học trong quan hệ với người đọc, về khoảng cách tất yếu giữa bản dịch và nguyên tác… nói riêng.
Trương Đăng Dung có thể nói là con người văn chương toàn tòng. Từ nhỏ đã yêu thích văn chương. Nhờ học giỏi môn văn, từ năm 1969 đến năm 1972 ông được chọn vào học lớp chuyên văn đầu tiên của tỉnh Nghệ An. Sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, mùa thu năm 1972, ông được sang Hungary du học. Năm 1975, 20 tuổi, ông viết bài thơ Âm hưởng mùa hè gửi về nước đăng báo Văn nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam). Mùa thu năm 1978 thì tốt nghiệp về nước. Năm 1981 ông trở lại Hungary làm nghiên cứu sinh. Thời gian này ông vừa viết luận án tiến sĩ vừa dịch Truyện Kiều sang tiếng Hungary, và như một thăng hoa đột xuất, một sáng mùa đông năm 1983, ông viết một mạch bài thơ Những kỉ niệm tưởng tượng. Ông dịch bài thơ này sang tiếng Hungary và được tờ tạp chí Uj irás (Tác phẩm mới) của Hội Nhà văn Hungary in trong số tháng 10 năm đó. Thế rồi từ ấy đến nay, ông bền bỉ hứng khởi dấn nhập với văn chương, thuận tay và đều tay với cả ba thể loại: thơ, dịch thuật và nghiên cứu lí luận. Cái tên Trương Đăng Dung trở thành một bảo chứng đầy kích thích và tin cậy.
2. Thơ như là ám ảnh hiện sinh
Bài thơ Những kỉ niệm tưởng tượng như là cách Trương Đăng Dung trừu xuất suy tư, rằng những gì mà con người phải chịu đựng trong chiến tranh ở thế kỉ XX nó quá khủng khiếp và phi lí như không xảy ra trong thực tế mà chỉ có trong tưởng tượng. Hơn nữa, với cái tên Những kỉ niệm tưởng tượng, ông muốn gửi đi một thông điệp khác liên quan đến đặc trưng của phản ánh nghệ thuật. Đó là chúng ta cần quan niệm hiện thực không chỉ là cái ở bên ngoài, cái đã xảy ra, cái có thật, mà còn là cái chưa hoàn tất, thậm chí cái chỉ xảy ra trong tưởng tượng, trong giấc mơ… Hiện thực là cái dang dở và mở. Nó không phải là trạng thái cố định mà là quá trình.
Năm 2011, phải đến gần 30 năm sau khi viết bài thơ Những kỉ niệm tưởng tượng, Trương Đăng Dung mới công bố tập thơ đầu tay cùng tên. Tập thơ chỉ vẻn vẹn có 25 bài, mỏng nhưng không hề nhẹ, càng củng cố xác tín văn chương “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Tập thơ ngay từ khi ra đời đã được giới bạn đọc đón nhận nồng nhiệt, và được trao Giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội trong năm đó. Tập thơ thực sự là một văn bản “mở”, với “kết cấu vẫy gọi”. Trước và sau khi tập thơ được trao Giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội, đã có gần 50 bài nghiên cứu phê bình về tập thơ.
Thơ Trương Đăng Dung có độ nặng của tính tư tưởng, của những suy niệm triết học liên văn hoá. Với ông, thơ là sự khám phá và giãi bày bản thể một cách tự nguyện. Lí luận, phê bình diễn giải cái thế giới nghệ thuật của nhà thơ, còn nhà thơ thì khám phá và giãi bày cái thế giới bên trong của chính mình. Ông cần đến thơ như một diễn ngôn có khả năng thể hiện được một cách phong phú hơn, đa diện hơn cái tôi luôn bất an trước thế giới.
Đi sâu vào thi tập Những kỉ niệm tưởng tượng, tôi cứ bị lây lan bởi những ám ảnh hiện sinh của Trương Đăng Dung liên quan đến cô đơn, thời gian và cái chết. Quả thực, ông đã trao cho môtíp khoảnh khắc một ý nghĩa quan trọng để từ đó thể hiện cảm thức thời gian trong tương quan với nỗi cô đơn và cái hữu hạn của kiếp người. Một khoảnh khắc có thể loé lên điều gì đó trong đời sống hiện tại, nó ẩn giấu ý nghĩa và hạnh phúc của cả cuộc đời để rồi sẽ mất đi vĩnh viễn. Đối với ông, khoảnh khắc chỉ là một trong những hình thức của sự cô đơn, bởi vì ở thời hiện tại tâm hồn không chỉ cô đơn trong không gian mà còn cô đơn cả trong thời gian. Cô đơn thời gian là khi con người một mình trong cái khoảnh khắc hiện tại, xa dần quá khứ, đối diện với một tương lai bấp bênh, mờ mịt. Đây là lí do để con người không chỉ cảm thấy xa lạ trước môi trường sống của mình mà cả với chính mình, cảm nhận được sự lạc lõng trước chính mình của quá khứ và của tương lai.
Có thể nói, ám ảnh thời gian là nỗi ám ảnh xuyên trùm, chi phối kiến trúc nghệ thuật thế giới tập thơ Những kỉ niệm tưởng tượng: thời gian đi trên những lối mòn không thể thấy (Thành phố phía chân trời); thời gian ở trong máu, không lời/ ẩn mình trong khóe mắt, làn môi/ trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời/ về kiếp người ngắn ngủi (Anh không thấy thời gian trôi)...
Cũng như các thi nhân hiện đại, Trương Đăng Dung quan niệm thời gian tuyến tính, mỗi khoảnh khắc qua đi là vĩnh viễn thuộc về quá khứ, con người bất khả cầm giữ, bất lực nhìn vạn vật phôi pha, cái chết nhỡn tiền: sợi tóc rụng bàn tay nào giữ được/.../ những gương mặt những nụ cười mới gặp/ chưa kịp thân đã thấy khác đi rồi (Anh không thấy thời gian trôi); nay hai màu tóc đan nhau/ ai biết được/ còn bao nhiêu năm tháng nữa trên đầu/.../ thời gian rơi/ qua từng kẽ ngón tay em vất vả/ không giữ được đâu em/ anh nghe ngày một gần hơn tiếng lũ quạ (Anh không còn gì ngoài em); răng mẹ rụng lúc nào không biết nữa (Có một thời); tóc bà bạc xóa (Ảo ảnh); thôi em đừng khóc/ rồi sẽ qua đi kiếp người ngắn ngủi/ một ngày kia hết mọi buồn vui/ chui xuống cỏ ta sẽ nằm dưới cỏ/ bàn tay ta bất động giữa đất dày/ bàn tay ta thôi tìm nhau run rẩy (Ảo ảnh)...
Để tô đậm tính chất vô thủy vô chung, vô hồi vô hạn của thời gian, tính chất nhỏ nhoi, hữu hạn của kiếp người, Trương Đăng Dung đã sử dụng nhiều cách nói phiếm chỉ về thời gian, kiến tạo thứ thời gian "tưởng tượng": có thể em quên rằng anh đã gặp em/ hai mươi ba ngàn năm về trước/ ở một bến sông/.../ anh cảm nhận thời gian qua từng giọt nước/ hai mươi ba ngàn năm trong giọt nước mắt này/ giọt nước của ngày xưa còn lại đến hôm nay/.../ anh không biết dòng sông trôi về đâu/ bốn mươi sáu ngàn năm nữa (Có thể); em chưa đến ngày chưa tỏa sáng/ sông mênh mang nỗi nhớ một con đò/ núi lặng lẽ đứng chờ bóng đổ/ ba mươi năm hay ba triệu năm rồi/.../ thăm thẳm trời cao đất rộng/ ba mươi năm hay ba triệu năm rồi// xao xuyến những mùa thu gió thổi (Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi); tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054/ tôi với anh đã nhìn thấy mặt trời (Những kỉ niệm tưởng tượng)...
Tuy nhiên, như phát hiện khá thú vị của Đỗ Lai Thúy, nếu thời gian Thơ Mới, dù chi phối con người một cách rốt ráo, vẫn cứ là thời gian khách thể, thì thời gian thơ Trương Đăng Dung còn là thứ thời gian đã được chủ thể hóa cao độ: anh không thấy thời gian trôi/ thời gian ở trong máu, không lời/ ẩn mình trong khóe mắt, làn môi/ trong dáng em đi nghiêng nghiêng... (Anh không thấy thời gian trôi). Từ Thơ Mới đến thơ Trương Đăng Dung là một quá trình.
Thời gian trôi nhanh, kiếp người ngắn ngủi. Sự thực nghiệt ngã đó con người không những không biết cách hóa giải mà còn vô minh tự lưu đày mình trong kiếp nạn trăm năm. Con người chuẩn bị sống từ lúc sinh ra, mỗi ban mai khắc khoải việc chưa thành, nhàu nát mưu sinh, thứ gọi là hạnh phúc trên đời cơ hồ không tồn tại: anh hỏi dòng sông về hạnh phúc trên đời/ sông trả lời anh sông chỉ biết trôi/ anh hỏi ngọn núi/ núi trả lời anh núi chỉ biết ngồi/ anh hỏi con người/ người trả lời anh bằng nước mắt rơi (Ảo ảnh)...
Vũ trụ thì hồn nhiên, vô vi: sông thanh thản kéo trời/ trôi theo mình lặng lẽ (Trên đồi Vọng Cảnh), sông vẫn bình yên hát khúc vô tư/ trời vẫn xanh như thế tự bao giờ (Có thể), trong khi đó con người lại cuồng phí quỹ thời gian sống hạn hữu cho trò chơi bắn giết: ở đâu đó đang gầm lên tiếng súng/ ở đâu đó bao người ngã xuống/ mắt nhắm rồi chưa một bữa ăn no (Anh không còn gì ngoài em); anh đã thấy những người dị dạng/ dang tay đòi hái mặt trời/ những bóng ma thọt chân, lang thang/ đòi trở về quê cũ/ và những đội quân không mũ/ tay súng, tay đao chân bước thụt lùi (Chân trời); những chuyến tàu chở đầy ắp vũ khí/ trên nóc toa là trẻ nhỏ người già/ những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo/ bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi (Những kỉ niệm tưởng tượng); những xác người được tìm thấy/ trong lớp đất bom vùi/.../ những đứa con chết/ mặt úp vào ngực mẹ (Tôi lại nhìn thấy họ); bom nổ ở một Thánh đường Hồi giáo/ máu người nhuộm đỏ sách Kinh/ bom nổ ở một chợ Bagdad/ thịt người trộn vào rau quả/ những người đàn bà choàng khăn đen lăn lộn (Ghi chép hè 2009)...
Chúa đã ra đi. Tội ác ngang nhiên, mặc nhiên hoành hành. Bể khổ đời cứ dâng triều, sóng cồn lên sôi động. Con người quáng mù cuồng tín trong những bình minh không có mặt trời/ trong những lâu đài chỉ có cánh dơi (Ảo ảnh), những bàn chân/ càng bước càng lún sâu vào đất (Giấc mơ của Kafka). Mùa tuyệt diệt đang ở rất gần: khi những cánh rừng già châu Phi bốc cháy/ voi chạy về châu Âu chết cóng giữa mùa đông/ khi hàng triệu con chim rời xứ lạnh bay về xứ nóng/ kiệt sức rồi phải lao xuống biển sâu (Viết cho con); em ở lại/ một lần nữa cùng anh giữa mùa trăng sắp lụi/ ta cùng nghe tiếng muôn loài hấp hối (Ảo ảnh); đêm đêm anh vẫn nghe lũ quạ/ cười nói huyên thuyên trên những bức tường (Những bức tường)...
Trong chuỗi ám ảnh về kiếp nạn cuộc người, Trương Đăng Dung đặc biệt ám ảnh về thân kiếp những người đàn bà. Đó là những người vợ mập mọ chợ búa mưu sinh giữa lúc những người đàn ông đang ngủ: họ đi hàng dọc/ gương mặt không trang điểm/ như được vớt lên từ đáy giếng/ đêm qua/ những con nhện biết rằng/ có người đã úp mặt vào tường/ úp mặt vào gối/ úp mặt vào bóng đêm nức nở (Những người đàn bà); những người vợ suốt đêm vá lưới/ mắt quầng thâm nhìn chồng (Tôi lại nhìn thấy họ); người đàn bà đẩy chiếc xe lăn/ lần thứ mười ba đưa chồng vào bệnh viện/ đêm dài hơn ngày/ ngày dài hơn con đường đã đi/ nỗi buồn của chị/ cũ hơn tháng ngày (Ghi chép hè 2009)... Đó là những nữ y tá kinh nguyệt chảy màu máu còn tươi rói/ không có bông, họ lấy áo choàng lau vội; những gái điếm ngủ dọc bờ sông đầu gục xuống (Những kỉ niệm tưởng tượng)...
Bằng cảm hứng tụng ca, Trương Đăng Dung đã tạc dựng hình tượng những người phụ nữ tận thiện tận mĩ. Đó là những người mẹ với cao cả đức hi sinh: người mẹ bị thương ruột lòi ra/ vẫn ôm con nhảy xuống hầm tranh nhau chỗ ngồi với rắn (Những kỉ niệm tưởng tượng); những người mẹ/ chết vẫn ôm con (Tôi đã nhìn thấy họ). Đó là em rạng rỡ, cao khiết, sáng trong: em đã đến/ đẹp như ánh trăng (Chân trời); ánh sáng này từ mắt em/ ánh sáng này từ môi em/ ánh sáng này từ ngực em (Ánh sáng này); em tỏa sáng giữa đời anh lặng lẽ (Có thể); em đã đến thổi màu vào ngọn lửa (Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi); em nói trời xanh anh chỉ thấy mắt em/ em nói mùa xuân anh chỉ thấy môi em (Không đề)...
Những câu thơ như một trưa tháng Năm cua bò cả lên bờ/ gió Lào thổi vô hồi rát bỏng/ mẹ rũ tóc che người tôi khỏi nóng/ mái tóc người đen nhánh giữa trời cao (Chúa đã ra đi) hay anh không còn gì ngoài bàn tay em/ vuốt lên tóc anh trước cả ánh mặt trời (Anh không còn gì ngoài em) có thể liệt vào hàng những câu thơ đẹp nhất, ám ảnh nhất viết về người phụ nữ. Người phụ nữ và vũ trụ tương đồng tầm vóc. Vọng ngân trong thơ Trương Đăng Dung âm-hưởng-nữ-quyền nhân văn nhân bản.
Những kỉ niệm tưởng tượng hiện diện một cái tôi nghệ sĩ cô đơn như ngọn gió: hơn nửa thế kỉ đi lại trên mặt đất này/ tôi không còn nhiều bạn/ cây gạo đầu làng cũng bị chặt mất rồi/ tôi không còn kí ức/ những giọt máu cuối trời tuổi thơ (Ghi chép hè 2009).
Ta bắt gặp trong thi tập những thi liệu xuất hiện trở đi trở lại với tần số cao mang tính chất mã hóa. Bên cạnh quạ (mã hóa cho nỗi ám ảnh về mùa tuyệt diệt), ta còn gặp những biểu tượng khác như chân trời (7 lần), mặt trời (9 lần). Chân trời, mặt trời mã hóa nỗi ám ảnh về những khát vọng, khao khát bất khả, bất thành. Cái tôi trữ tình khát cháy được thăng vượt những quẩn quanh, những tủn mủn, vô nghĩa của thực tại để thực hành lí tưởng, tìm gặp cái tuyệt mĩ, cái "vô biên và tuyệt đích" (từ dùng của Xuân Diệu), sở hữu ý nghĩa đích thực của cuộc tồn sinh ngắn ngủi: khao khát một thứ gì nồng cháy như mặt trời (Chân trời); anh đi không một phút bình yên/ chân trời dấu những điều không đến (Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi)...
Nếu Trần Dần từng "khóc những chân trời không có người bay/ lại khóc những người bay không có chân trời" thì cái tôi trữ tình trong thơ Trương Đăng Dung khóc cho người bay không đến được chân trời, bởi những quái đản vô hình bủa vây ngáng trở: khi ta nghĩ đến những miền xa/ phía trước ta đã có những bức tường// những bức tường, những bức tường, những bức tường/ có mặt khắp nơi/.../ những bức tường không thể phá (Những bức tường)...
Không thể cầm giữ thời gian, không thể kháng cự sức hủy diệt của thời gian, chỉ có cách thực tế nhất là bàn chân mình để dấu muôn nơi, đóng con dấu hữu hạn đời mình lên càn khôn vô hạn, là diệu huyền hóa, vật chất hóa từng milimet hiện sinh: em đừng xếp lại chăn/ em đừng chải lại tóc/ em đừng tô lại môi/ cứ để nguyên áo quần trên ghế/ cứ để nguyên hiện trạng căn phòng// anh cần vật chứng/ trước thời gian (Vật chứng); là tận hiến: anh chiếm chỗ bóng đêm/ anh gom ánh sáng bằng sức lực đàn ông/ có tự ngàn đời/ để cho em rạng rỡ (Anh chiếm chỗ bóng đêm); là "nổi loạn": ngôi nhà muốn bay/ con đường muốn trôi/ dòng sông muốn dựng ngược/ các sự vật muốn được gọi tên/ các sự việc muốn có đời sống mới (Thỏa thuận).
Trình tự sắp xếp không phải ngẫu nhiên giữa các bài thơ làm nên kiến trúc chỉnh thể của thi tập, phát lộ một ý nghĩa thỏa thuận: Con đường khả dĩ hóa giải bi kịch mà con người cần khai phóng trước hết đó là khai minh, phát quang những bản năng u tối. Và chỉ có tình yêu thương may ra đủ sức mạnh cứu rỗi.
Đọc Những kỉ niệm tưởng tượng, cứ đầy lên trong tôi xác tín: "Không bắt chước Tàu, không bắt chước Tây" (Thạch Lam), cứ là mình, cứ để cho những trải nghiệm, chiêm ngẫm, những ý nghĩ lang thang trong lồng ngực mình bốc cháy thành thi hứng, cứ đi tận cùng hoàn cảnh đương đại, cứ giữ trái tim mình đừng bao giờ lạc lõng/ trước mọi vui buồn bất hạnh thời mình sống, cứ hồn nhiên viết như những gì mình thấy, mình cảm… thì thơ sẽ đủ sức thuyết phục. Nếu quan niệm yếu tính của thơ là tính tư tưởng thì yếu tính của nhà thơ phải là phông nền văn hóa, nói như Bảo Ninh, "tầm văn hóa càng sâu rộng, tác phẩm của anh ta càng đạt được tới gần hơn nỗi niềm và tiếng lòng của nhân dân thời đại mình".
Thơ Trương Đăng Dung là thứ thơ có khả năng làm đầy nơi người đọc những cảm giác sống, tâm tình thời đại. Cái gọi là cảm quan/tâm thức hậu hiện đại mà người ta nói nhiều những năm đầu thế kỉ XXI thì ra đã hiển lộ nơi những bài thơ được Trương Đăng Dung viết và công bố cách đây hơn bốn mươi năm về trước (Chúa đã ra đi, Tôi lại nhìn thấy họ, Những kỉ niệm tưởng tượng...) Thơ Trương Đăng Dung tươi mới. Và riêng khác.
Năm 2020, sau gần 10 năm xuất bản Những kỉ niệm tưởng tượng, Trương Đăng Dung công bố tập thơ thứ hai: Em là nơi anh tị nạn (Nhà xuất bản Văn học). Như một sự trương nở vừa đa bội vừa nhất quán, tập thơ tiếp tục triển tải những ám ảnh hiện sinh, những suy niệm triết học của Trương Đăng Dung.
Khổng Tử từng phát biểu: “Thiên địa chi đại đức viết sinh” (tính chất nổi bật trong trời đất là sự sống). Nhưng, suy cho cùng, sự sống/ cái sống là trường khúc hoan ca hay bi ca, là đặc ân hay sự lưu đày của thiên địa dành cho chúng nhân? Những mã số căn cốt nhất của hiện tồn như ngơ ngác, cô đơn, vật vờ, lo toan, lầm than, đau khổ, ai oán, hoài nghi, trống rỗng, bất an, sợ hãi, mặc cảm, bất lực, khắc khoải, mơ mộng, khát vọng… hiển diện dày đặc trong tập thơ Em là nơi anh tị nạn. Đáng nói là, chúng không hề bị bão hòa xơ vữa nghĩa mà cựa quẫy năng sản nghĩa, bởi có sự liên văn bản thú vị với Kinh thánh, với sáng tác của Kafka, Dostoevsky, Nikos Kazantzakis, với triết học hiện sinh (tôi có tác phẩm đầu tiên là tiếng khóc chào đời sau chín tháng ngồi im tập xếp hình dấu hỏi - Tự bạch), triết học phi lí (tất cả áp sát tôi/ tôi nói, họ không hiểu/ họ nói, tôi không hiểu - Ác mộng), triết học hiện tượng luận (có thế giới này không/ nếu con người ngừng cấp cho ý nghĩa - Lưu ý), triết học ngôn ngữ (tôi không nói được chính xác bằng lời về những điều cảm nhận/ ngôn từ như con tắc kè hoa, có đời sống riêng và không ngừng thay đổi - Tự bạch), mĩ học về phản ánh nghệ thuật của Christopher Caudwell (như thể mỗi lần ta khép cửa/ thế giới phân đôi/ thực tại ở ngoài kia/ ảo ảnh ở trong này - Như thể), thông diễn học (như thể bị khước từ sức mạnh/ trí năng trở nên bất lực/ mọi lí giải/ chống lại điều lí giải - Như thể)… Thơ Trương Đăng Dung đặc biệt gọi về tinh thần Kafka nói chung và tinh thần các tiểu thuyết Lâu đài, Vụ án, các truyện ngắn Cái hang, Trên khán đài… nói riêng, rằng đích đến không quan trọng bằng quá trình đến, rằng con người phải biết thỏa hiệp ngay cả khi bất khả xác tín trước quyền uy, rằng mỗi chủ thể sống vẫn có thể dùng lí trí theo những cách phi lí nhất, rằng “chính sự không hoàn hảo của con người khiến cuộc đời này trở thành hiện thực và đáng quý bởi con người vốn không được trang bị để sống cuộc đời chỉ gồm những tình huống lí tưởng” (John M.Ellis)... Như vậy, thơ trong tập thơ Em là nơi anh tị nạn không chỉ ghi lại những sự kiện của tâm hồn cá thể, mà còn thông qua đó để khơi mở những suy tư, truy vấn, đối thoại về tồn tại người.
Thế giới vỡ vụn, văng ngổn ngang những mảnh cô đơn: nhà chọc trời bóng đổ, sông oằn mình trôi như thể đã lâu rồi trời với sông không muốn nhìn nhau nữa (Lên cao lên cao). Cuộc sống mỗi người không sách nào dạy nổi; từng chủ thể sống trải nghiệm thực tại của Đấng Toàn Năng theo cách của mình (Độc thoại). Số phận người nào trên vai kẻ đó; một khi đã bị sinh ra, bị đặt vào tình thế làm người thì mỗi người hãy như một tráng sĩ/ kiêu hãnh thẳng tiến về Định Mệnh (Tô Thuỳ Yên). Với ý nghĩa thỏa thuận như vậy, tác giả thi tập đi đến xác quyết: thế giới này không còn chỗ bình yên, em là nơi anh tị nạn (Tin nhắn cho em). Ở đây, em, không ai khác, cũng chính là anh - một cái “tôi” vừa thường trực hoài nghi, cô đơn và bất lực vừa tự do tự chủ tự tại. Hãy lắng nghe thi sĩ - một đứa trẻ biết già - tự bạch với mẹ, rằng trong cuộc chiến chỉ mình con biết, rằng tâm hồn con mang nặng cuộc đời con, rằng con làm kẻ thứ ba/ giữa tâm hồn bất an/ và thể xác bất toàn (Trên bàn mổ).
Giới hạn bủa vây ta (Một lần nữa). Thời gian nói: Tôi luôn là hiện tại (Đối thoại). Thế nên, muốn kiến tạo nghĩa, cấp nghĩa cho cái sống vốn vô nghĩa của mình thì chủ thể sống phải vượt thoát sự duy lí, nới giãn chiều kích của hiện tại. Phải lấy đức sinh làm trọng, lấy hiếu sinh làm đường. Hiếu sinh là thuận theo trời đất mà bồi đắp cho sự sống: anh muốn em là quá khứ để anh sống bình yên trong hiện tại; anh muốn em là hiện tại để anh hi vọng vào tương lai; anh muốn em là tương lai để kí ức anh tự do bừng sáng (Tin nhắn cho em).
Xưa Hoài Thanh cho rằng thơ phải “có sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại”, nay Nguyễn Hưng Quốc khẳng quyết “tính đại chúng là kẻ thù của văn học”. Với tinh thần tôn trọng người đọc, bằng ngôn từ kết nối/ phân chia đạt đến độ cô nén, ám gợi người nghe tự hiểu/ người nói tự im, thơ Trương Đăng Dung tự do tạo nghĩa nơi những chủ thể đồng sáng tạo. Nếu "mỗi văn bản là một liên văn bản" (J.Kristeva) thì quá trình tiếp nhận thơ Trương Đăng Dung sẽ trở nên đặc biệt lí tưởng khi người đọc thực hiện cuộc kết nối những gì mình đọc với vốn "điển" có sẵn trong khung văn hóa của mình. Thơ Trương Đăng Dung khơi vẫy những cuộc đối thoại tư tưởng, đối thoại văn hóa trong "hoàn cảnh hậu hiện đại", nơi/khi chân lí không có bản gốc, chỉ hiện tồn vô vàn "dị bản": thế giới bấp bênh/ những ý nghĩa thỏa thuận (Thỏa thuận).
3. Nghiên cứu lí luận như là truy vấn triết học
Người ta nói thế kỉ XX là thế kỉ của lí thuyết văn học, nói rõ hơn đó là thế kỉ của những thành tựu lí thuyết văn học. Nhìn lại các công trình lí thuyết văn học của Trương Đăng Dung đã được xuất bản như Các vấn đề của khoa học văn học, Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Tác phẩm văn học như là quá trình, Văn bản văn học và sự bất ổn của nghĩa…, thấy chúng là kết quả của một quá trình nghiên cứu có hệ thống, nhất quán cả về tư tưởng học thuật lẫn đối tượng nghiên cứu. Các công trình này của Trương Đăng Dung đã quán chiếu những khám phá về bản chất ngôn ngữ của tư duy lí luận văn học hiện đại. Nhờ những ý kiến khác nhau về bản chất của ngôn ngữ mà tư duy lí luận văn học luôn phải tự thay đổi cho phù hợp với những phát hiện mới về đối tượng. Với việc nhận ra sự khác biệt giữa văn bản văn học và tác phẩm văn học, lí luận văn học hiện đại đã vượt lên tư duy lí luận văn học tiền hiện đại. Nếu trước đây, tư duy lí luận văn học tiền hiện đại (khoa học văn học thực chứng) chỉ nhấn mạnh đến mối quan hệ nhân quả (triết học tự nhiên), đề cao yếu tố môi trường, tác giả thì lí luận văn học hiện đại đã nhận ra yếu tố đặc thù của văn bản văn học, để rồi sau đó lí luận văn học hậu hiện đại đề cập vấn đề phương thức tồn tại của tác phẩm văn học. Từ chỗ lấy mĩ học sáng tạo làm cơ sở, tư duy lí luận văn học hậu hiện đại đã từng bước khẳng định vai trò quan trọng của mĩ học tiếp nhận. Như vậy, không chỉ dừng lại ở những bước tiến quan trọng trong việc khám phá văn bản văn học như là cấu trúc ngôn từ động, tư duy lí luận văn học hậu hiện đại đã có những khám phá mới hơn về đặc trưng bản thể của văn bản văn học trong quan hệ với những yếu tố khác, với người tiếp nhận. Điều này giúp chúng ta nhận thức sâu sắc rằng cơ chế tạo nghĩa của văn bản văn học không ổn định và mang tính quá trình. Tiếp theo khái niệm nghĩa đang tồn tại của lí luận văn học hiện đại là khái niệm nghĩa được thiết lập của lí luận văn học hậu hiện đại. Từ đây liên quan đến câu hỏi phương thức tồn tại của tác phẩm văn học là gì, có hai vấn đề mà lí luận văn học phải đề cập đến: một là tính chất ngôn ngữ, cái quyết định đặc trưng bản thể của văn bản văn học; hai là khả năng tạo lập đời sống cụ thể của văn bản văn học, độc lập với chủ ý của nhà văn. Và chính những nỗ lực giải quyết hai vấn đề này của lí luận văn học hiện đại, hậu hiện đại đã soi sáng bản chất của phản ánh nghệ thuật mà trong công trình Phản ánh nghệ thuật trong mĩ học của Lukács György (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2018), Trương Đăng Dung đã có dịp bàn kĩ.
Công trình Văn bản văn học và sự bất ổn của nghĩa (Nhà xuất bản Văn học, 2021) của Trương Đăng Dung đã giành được phiếu tuyệt đối ở cả hai vòng xét giải: vòng Hội đồng Lí luận phê bình và vòng Ban Chấp hành, để được vinh danh một cách xứng đáng tại Lễ trao Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2021 diễn ra tại Hà Nội vào dịp Nguyên tiêu 2022. Đây thực sự là tập tiểu luận sang trọng của một nhà nghiên cứu lí luận uyên bác thông tuệ mà tên tuổi của ông là một sự bảo chứng thuyết phục trong giới văn chương học thuật. Cuốn sách có độ sâu của tri thức khoa học, độ mới của những lí thuyết hiện đại/ hậu hiện đại, độ mở của tư duy phản biện, chất vấn, khơi vẫy đối thoại… trên hành trình suy niệm truy vấn mang tính triết học về đặc trưng bản thể của văn bản văn học, về cơ chế tạo nghĩa của văn bản văn học trong quan hệ với người đọc. Cái phẩm tính vừa duy học thuật vừa duy mĩ nơi chủ thể mang đến cho bạn đọc những trang viết vừa đẫm trĩu hàm lượng chuyên môn, vừa phát sáng vẻ đẹp ngôn từ…
4. Dịch thuật như là đối thoại văn hóa
Với việc dịch Truyện Kiều sang tiếng Hungary từ khi còn rất trẻ (Nhà xuất bản Europa, 1984), có thể nói Trương Đăng Dung là một trong những người tiên phong trong việc tiếp thị quốc hồn quốc túy Việt Nam ra thế giới. Ông mong muốn thế giới biết nhiều hơn về Việt Nam, nhất là hiểu hơn về vẻ đẹp tâm hồn, những khát vọng của một dân tộc từng chịu nhiều đau khổ. Theo ông, những hiểu biết về nhau giữa các dân tộc cho đến hôm nay vẫn còn nhiều giới hạn, cho dù con người ngày nay có vẻ đang sống trong một thế giới “phẳng” hơn. Bakhtin nói rất đúng rằng, khi hai nền văn hoá gặp gỡ, đối thoại với nhau chúng không hoà trộn vào nhau, mỗi bên bảo vệ sự thống nhất và sự nguyên vẹn để ngỏ của mình.
Không chỉ dừng lại với với việc dịch Truyện Kiều ra tiếng nước ngoài, Trương Đăng Dung còn dịch nhiều tác phẩm văn học nước ngoài sang tiếng Việt, tiêu biểu là tiểu thuyết Lâu đài của Franz Kafka cùng nhiều công trình triết học ngôn ngữ và lí thuyết văn học của Martin Heidegger, Roman Ingarden, Hans Robert Jauss, Paul Ricoeur, Lukács György, Nyírố Lajos, Christopher Caudwell, Ernst Fischer, Boris Yarho, Klaniczay Tibor, Sốtér István, Simon Jeune, Hafner Zoltán, Tverdota Gyorgy… (bản dịch và giới thiệu các công trình triết học ngôn ngữ và lí thuyết văn học này được Trương Đăng Dung tập hợp, tuyển chọn, chỉnh lí và xuất bản dưới tên sách Lí luận văn học như là siêu khoa học, Nhà xuất bản Văn học, 2025). Ông chia sẻ, bản thân không có bí quyết dịch thuật gì đặc biệt nhưng luôn ý thức một cách nghiêm túc nhất về công việc này. Ông hiểu rằng dịch không phải là công việc chuyển ngữ thuần tuý. Quá trình dịch Trên đường đến với ngôn ngữ, một tác phẩm triết học ngôn ngữ của M.Heidegger, ông đã học được rất nhiều về bản chất của ngôn ngữ. Nếu ngôn ngữ là ngôi nhà của Hữu thể như M.Heidegger nói thì những con người sống trong ngôi nhà đó cũng có những giới hạn, bởi vì sự giao lưu tinh thần của họ đã bị ngôi nhà của Hữu thể quy định. May thay, mọi thông điệp đều vừa hướng đến người tiếp nhận lại vừa đặt điều kiện cho người đó phải có nỗ lực để hiểu nó. Thực hiện được điều này là nhờ cái ý tưởng chung giữa người phát thông điệp và người nhận thông điệp. Như vậy, sự khác nhau về văn hoá, tôn giáo giữa các dân tộc cũng là trở ngại lớn đối với người dịch văn học không khác gì sự khác biệt về ngôn ngữ. Khi dịch Truyện Kiều, thử thách lớn đối với ông là làm thế nào để mở ra và truyền tải được cái tinh thần văn hoá đặc trưng có trong ngôn ngữ nguyên bản.
5. Tự do - ánh sáng hợp nhất các chiều kích
Trương Đăng Dung không ngừng khám phá mình, cơi nới mình, để vượt thoát giới hạn, để trưởng thành một cách đồng bộ những chiều kích. Ông là cây bút “đa năng”, “nhiều trong một” thì đã rõ, nhưng với tôi, sau trước ông vẫn là một thi sĩ. Ông sống thơ, viết thơ, và đến lượt những cái viết khác của ông cũng đẹp như thơ. Trương Đăng Dung không dùng dằng mà quyết liệt đi về phía tự do. Chỉ có tự do mới đủ sức tỏa chiếu thứ ánh sáng làm cho gương mặt ta mãi mãi là gương mặt con người (Tin nhắn cho em).
III. KẾT LUẬN
Việc khảo sát trường hợp Trương Đăng Dung không chỉ nhằm khẳng định đóng góp cá nhân, mà còn để soi chiếu những vận động, những bước tiến và cả những vấn đề đặt ra của văn học Việt Nam đương đại. Bởi lẽ, ở ông, ta bắt gặp sự song hành và giao thoa giữa các “vai” sáng tạo: người viết thơ, người dịch, người nghiên cứu lí luận văn học. Sự song hành ấy không phải là những mảnh ghép rời rạc, mà là một chỉnh thể nhất quán, một tinh thần tìm kiếm không ngừng, luôn đối thoại với hiện thực, với truyền thống, với tri thức thế giới và với chính bản thể con người.
Nói cách khác, Trương Đăng Dung là một trường hợp tiêu biểu cho khuynh hướng “đa năng” đã góp phần định hình diện mạo văn học Việt Nam sau 1975. Phân tích những sáng tác và công trình của ông, ta có thể nhận diện rõ hơn cách mà văn học nước ta vừa kế thừa truyền thống, vừa tiếp nhận ảnh hưởng quốc tế, vừa tự kiến tạo bản sắc trong thời kì hội nhập.
Đọc lại hành trình văn chương chữ nghĩa của Trương Đăng Dung, từ thơ đến dịch thuật đến nghiên cứu lí luận, để thấy được ánh sáng tự do tỏa ra từ một gương mặt “nhiều trong một” đã góp phần đáng kể làm nên những thành tựu chung của văn học Việt Nam sau 1975.
----------
Tham luận tại Hội thảo "Văn học Việt Nam sau năm 1975 - thành tựu, vấn đề và triển vọng"