Sự xuất hiện của internet đã làm thay đổi hoàn toàn diện mạo văn học.
Từ sau năm 1975, văn học Việt Nam bước vào một giai đoạn mới, phản ánh công cuộc hàn gắn hậu chiến và công cuộc Đổi mới 1986. Nửa thế kỷ qua, văn học nước nhà vừa kế thừa truyền thống dân tộc, vừa chịu sự chi phối của biến động xã hội, tư duy nghệ thuật và cơ chế xuất bản. Bước vào thời đại công nghệ số, văn học Việt Nam có thêm động lực và phương tiện để mở rộng không gian biểu đạt, đưa tác phẩm đến gần công chúng theo những cách thức chưa từng có trước đây.
Nếu trước đây, để in được một cuốn sách và để sách đến với tay bạn đọc phải gian nan vượt qua nhiều cửa ải như nhà xuất bản, biên tập và kiểm duyệt thì giờ đây chỉ cần cú nhấp chuột, bài thơ, tản văn, truyện ngắn hoặc chỉ dòng trạng thái giản đơn trên mạng xã hội cũng có thể tức thời lan truyền rộng khắp, nhận về phản hồi nhanh chóng và tạo nên sức ảnh hưởng không kém gì một cuốn sách in truyền thống.
Văn chương trong kỷ nguyên số đã không còn giới hạn trên những trang giấy. Nó bước ra đời sống trong vô vàn hình thức, hiện diện trên màn hình điện thoại, những tệp tin ebook, giọng/lời đọc từ audiobook hay podcast, và sôi động trên các nền tảng facebook, zalo, twitter, instagram… Cùng với đó, đời sống xã hội ngày càng phức tạp, đa tầng sẽ kéo theo sự thay đổi của các giá trị truyền thống, và thói quen đọc cũng không ngoại lệ, phải tự làm mới. Nếu trước kia, người đọc thường kiên nhẫn chờ ở sạp báo, bưu điện hay cặm cụi lục tìm trong thư viện để có được tờ báo hay cuốn sách mình cần, thì nay, nhờ sự tiện lợi của công nghệ số, chỉ với vài thao tác gõ phím và nhấn enter, họ đã có thể tiếp cận nguồn tri thức khổng lồ, thói quen đọc truyền thống không còn giữ vị trí độc tôn, nhường chỗ cho những trải nghiệm đa dạng và phong phú hơn bao giờ hết.
Lâu nay, sách giấy được coi là biểu tượng của của tri thức và thói quen đọc truyền thống. Người đọc, khi nâng niu một cuốn sách giấy trên tay, thường chìm đắm trong những cảm giác rất riêng, đó là mùi thơm tho của giấy mới, sắc mực in quen thuộc và đặc biệt niềm vui rạo rực, thích thú khi được chạm tay, lật mở từng trang. Đọc, nhấm nháp và đối thoại cùng con chữ, người đọc có cơ hội dừng lại ngẫm ngợi, ghi nhớ/chép, gấp góc hay đánh dấu lên câu chữ/ trang giấy, tự tra vấn tri thức và mở rộng trí tưởng tượng của mình. Đây là tâm-thế-đọc đặc trưng của sách giấy mà các phương tiện đọc hiện đại khó có thể thay thế. Nên, dù công nghệ số có mang đến vô vàn tiện ích, nhiều độc giả vẫn trung thành với sách giấy, tìm thấy trong đó niềm khoái thú, sự nuôi dưỡng trí tuệ và cả chính tâm hồn mình.
Nhưng, đứng trước sự phát triển của internet và công nghệ hiện đại, chúng ta khó lòng an trú mãi trong không gian quen thuộc ấy. Thời đại toàn cầu hóa đòi hỏi sự linh hoạt trong việc lĩnh hội tri thức. Nếu khăng khăng bảo thủ, chỉ đọc theo cách cũ, chúng ta có thể bỏ lỡ những kênh tiếp cận đa dạng mà công nghệ mang lại. Ebook, audiobook, hay kho sách số toàn cầu cho phép người đọc kết nối tri thức rộng lớn trong thời gian nhanh chóng với chi phí thấp hơn nhiều so với sách in.
Chúng ta lấy ví dụ trường hợp Mưa đỏ của Chu Lai, một tác phẩm đang làm mưa làm gió ngoài thị trường. Tại buổi họp báo ra mắt dự án phim cùng tên ngày 23/7/2025 ở Hà Nội, ông đã kể lại hành trình dài của đứa con tinh thần này. Ông viết kịch bản năm 2010, phát triển thành tiểu thuyết xuất bản năm 2016, rồi quay trở lại với sân khấu và điện ảnh năm 2025. Nhìn lại, có thể thấy tiểu thuyết này từng đoạt giải A cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam và giải A của Bộ Quốc phòng, nhưng hiệu ứng lan tỏa vẫn khá khiêm tốn. Đến năm 2021, kịch bản sân khấu tiếp tục giành giải A của Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, song phải đến quý III năm 2025 vở kịch mới chính thức công diễn. Khi ấy, sự quan tâm của công chúng mới bùng nổ. Khi ấy, tác phẩm mới làm một cú lội ngược dòng ngoạn mục. Người tìm mua bản in, người đọc ebook, nghe audiobook và tiểu thuyết cũng liên tục tái bản sau khi dự án phim khởi động. Quá trình từ kịch bản đến tiểu thuyết, rồi trở lại sân khấu và điện ảnh cho thấy công nghệ và các hình thức chuyển thể có thể thổi lửa và khuếch truyền văn chương. Nhưng sách giấy vẫn có chỗ đứng riêng trong trải nghiệm đọc. Và dù dưới dạng nào, tác phẩm văn học vẫn là gốc rễ, là điểm khởi đầu và nguồn cảm hứng. Có bột mới gột nên hồ, mọi phương tiện rốt cuối cũng đưa bạn đọc trở lại với tác phẩm gốc, vì đây là nơi lưu giữ giá trị lâu bền của văn chương.
Câu chuyện của Mưa đỏ không phải là duy nhất. Sau 1975, nhiều tác phẩm văn xuôi và thơ ca Việt Nam đã có “đời sống thứ hai” nhờ tái bản, dịch thuật, chuyển thể sân khấu, điện ảnh hay số hóa thành ebook, audiobook. Sự giao thoa giữa sách giấy và sách số cho thấy văn học Việt Nam đang vận động theo hướng đa kênh, duy trì bản sắc truyền thống nhưng vẫn thích ứng với công nghệ hiện đại. Đây là một trong những thành tựu minh chứng khả năng đổi mới và hội nhập của văn học sau 1975.
Với những so sánh trên, chúng ta thấy giữ thói quen đọc sách giấy là điều đáng trân trọng. Nhưng nếu dừng lại ở đó, chúng ta sẽ tự giới hạn bản thân, khó đáp ứng những yêu cầu ngày càng cấp bách của học tập, nghiên cứu và hội nhập văn hóa. Đọc văn học hôm nay cần sự dung hòa giữa việc duy trì giá trị truyền thống của sách giấy và thái độ cởi mở đón nhận tiện ích của công nghệ. Tự do trong đọc, vì thế, không phải quyền lựa chọn tuyệt đối một hình thức, đó là năng lực thích ứng, biết tùy cơ ứng biến để giữ được lập trường và bản sắc giữa thế giới đang biến đổi từng ngày.
![]() |
| Sự xuất hiện của internet đã làm thay đổi hoàn toàn diện mạo văn học. Nguồn DAILYSCEPTIC |
Cảm hứng của nhà văn thúc đẩy họ dấn thân vào nghiệp viết. Tất nhiên, không phải nhà văn nào cũng ngồi chờ cảm hứng đến mới sáng tạo. Họ biết cách tạo vẫy cảm hứng. Với người đọc cũng vậy, cảm hứng khi đọc là cần thiết, bởi nó giúp ta mở lòng, tiếp nhận cái mới và gắn bó lâu dài với sách. Theo tôi, quan trọng hơn cả là tập cho mình thói quen đọc, đọc tự nguyện, tìm thấy niềm vui trong những trang sách, và biết sắp xếp, tranh thủ thời gian để việc đọc trở thành nhu cầu tất yếu không thể thiếu trong đời sống hằng ngày.
Đọc sách ngày nay không còn là câu chuyện riêng lẻ của mỗi cá nhân. Đọc sách là hoạt động kết nối con người trong những cuộc giao lưu, đối thoại rộng lớn. Chúng ta có thể tiếp cận tức thời các tác phẩm đoạt giải Nobel, theo dõi chiều hướng văn chương thế giới, rồi từ đó nhìn lại và đánh giá nền văn học nước nhà. Đọc sách, vì thế, ngoài nhu cầu giải trí hay tìm cảm xúc còn để bồi đắp, trau dồi trí tuệ bản thân.
Nhìn rộng ra, sau Đổi mới 1986, phê bình và nghiên cứu văn học Việt Nam đã có sự dịch chuyển đáng kể. Những năm đầu, phê bình chủ yếu vẫn đi theo quỹ đạo chính thống nhưng càng về sau, nhất là trong hai thập niên gần đây, các hội thảo khoa học, tạp chí văn nghệ và không gian mạng xã hội đã rộng mở đối thoại, đưa nhiều quan điểm tân tiến đến công chúng. Hiện tượng hiệu ứng đám đông trong đọc và phê bình văn học hiện nay cần được đặt vào tiến trình phát triển của văn học Việt Nam sau năm 1975 như hệ quả tất yếu của sự chuyển đổi từ mô hình kiểm soát tập trung sang không gian sáng tạo thoáng đạt và đa diện hơn.
Theo báo cáo Digital Marketing 2024 & xu hướng hành vi người dùng Internet tại Việt Nam, mỗi ngày, người Việt dành trung bình 6 giờ 18 phút cho Internet, 2 giờ 21 phút để xem TV và 2 giờ 25 phút để truy cập mạng xã hội. Những con số này minh chứng vai trò không thể thiếu của thế giới số trong đời sống hiện đại. Tuy nhiên, mặt trái của nó là hiện tượng đọc vội ngày càng phổ biến. Khi việc đọc bị phân mảnh, xen kẽ với vô số thông tin và hình thức giải trí khác, độc giả rơi vào trạng thái nhiễu loạn nên chỉ lướt sóng trên mặt chữ để tiếp nhận thông tin mà bỏ lỡ vẻ đẹp tinh tế và nhịp vận động kỳ diệu của ngôn từ.
Lấy ví dụ từ thi ca. Một bài thơ của Bùi Giáng, Lê Đạt… đòi hỏi sự thanh lọc tâm trí để chúng ta gỡ từng lớp nghĩa, từng tầng hình ảnh mà các thi sĩ gửi trao. Nếu đọc vội vàng, qua loa, người đọc chỉ nắm được cái vỏ chữ, còn phần hồn thì vuột mất. Ngược lại, khi gạt bỏ ồn ào và dành đủ thời gian cho văn bản, ta mới nghe được tiếng khóc, tiếng cười, tiếng thở dài ẩn sau con chữ.
Nếu nhà văn cần cô đơn để sáng tạo thì độc giả cũng cần cô đơn để thưởng thức. Cái cô đơn này không phải sự tách biệt tiêu cực mà là sự lựa chọn có ý thức, khép lại xao động ngoại giới để chuyên chú thế giới bên trong văn bản. Nhờ vậy, người đọc thực hành lối đọc nghiền ngẫm, duy trì đối thoại liên tục với tác giả, nhân vật và bản ngã.
Phương thức đọc trong kỷ nguyên số còn mở rộng sang không gian tương tác xã hội. Các cộng đồng yêu sách trên facebook hay diễn đàn sách tạo cơ hội cho độc giả chia sẻ cảm nhận, thảo luận và truyền cảm hứng đọc sách. Tuy nhiên, sự giao lưu ấy cũng tiềm ẩn hiệu ứng đám đông, nhiều người bị cuốn vào trào lưu, tìm đến những cuốn sách hot chỉ nhằm bắt kịp xu hướng cho bằng chị bằng em, làm phai nhạt cá tính và quan điểm độc lập của mỗi người. Không ít trường hợp, một tác phẩm nổi đình nổi đám không hẳn nhờ giá trị văn chương hay tư tưởng mà nhờ sức lan truyền như lửa gặp gió của mạng xã hội, đánh trúng tâm lý nhất thời của một bộ phận giới trẻ. Điều đó cho thấy việc đọc trong kỷ nguyên số, bên cạnh mặt tích cực, cũng đặt ra thách thức làm sao giữ được chiều sâu và sự chọn lọc chứ không nên a dua chạy theo những trào lưu trước mắt.
Dẫu vậy, cũng có nhiều tác phẩm và cuộc thi xuất phát từ mạng xã hội đã gặt hái thành công và được đánh giá cao về mặt chất lượng. Một ví dụ tiêu biểu phản ánh rõ vai trò chủ động và sáng tạo của độc giả ngày nay là cuộc thi “Thơ ca và nguồn cội” do nhà thơ Nguyễn Quang Thiều khởi xướng trên trang facebook cá nhân. Ở lần tổ chức thứ ba, cuộc thi đã trở thành hiện tượng thơ ca trực tuyến, thu hút hơn 500 tác giả và 1.500 bài thơ gửi về từ khắp nơi trên thế giới. Việc đăng công khai từng chùm thơ trực tiếp trên facebook đã khiến không gian mạng thành diễn đàn thẩm định sống động. Độc giả đọc, bình luận và đối thoại trực tiếp với tác giả. Điều thú vị là bên cạnh tác phẩm luôn có những “Lời người làng Chùa” thấm đẫm chiêm nghiệm như: “Con chim không thể rời xa bầu trời, con cá không thể rời xa hồ nước. Và thơ ca không thể rời xa con người” hay “Mất nửa đời học làm thơ, mất cả đời học làm người”. Xét trong cuộc thi này, chính độc giả, với sự lắng nghe và hồi đáp, đã góp phần tạo nên sức sống và nội hàm cho thơ ca trong kỷ nguyên số.
Chúng ta đang sống trong thời đại công nghệ số và trí tuệ nhân tạo bùng nổ. Mọi việc, từ đơn giản đến phức tạp, đều có thể được máy móc hỗ trợ, ngay cả việc sáng tác thơ ca, văn xuôi... Tuy vậy, mạng xã hội vẫn là con dao hai lưỡi, một mặt tạo ra những cơn sóng phù phiếm, chỉ thỏa mãn sự hiếu kỳ, mặt khác có thể khơi nguồn sáng tạo cho cả người viết lẫn người đọc. Vấn đề căn cốt là thái độ của người đọc, cần tỉnh táo chọn lựa, trân trọng giá trị đích thực và để mỗi lần đọc, trên trang sách hay màn hình, đều là cuộc phiêu lưu kỳ thú vào thế giới nội tâm.
Ngày trước, vai trò của độc giả là lĩnh nạp thông tin, cảm thụ tác phẩm thụ động. Ngày nay, vai trò này đã đổi thay rõ rệt. Với sự phát triển của công nghệ, độc giả vừa là người tiêu dùng vừa là người sáng tạo. Họ đọc, rồi viết giới thiệu, sáng tạo nội dung liên quan đến tác phẩm và tham gia vào quá trình lan truyền giá trị của tác phẩm đó. Sự đổi mới này đã làm cho không gian văn học đa diện và năng động hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết nối văn học với công chúng. Vì vậy, việc đọc trong kỷ nguyên số đòi hỏi độc giả phải làm nhiều hơn là chỉ thâu nhận thông tin. Họ cần biết trân trọng tác giả, giữ tinh thần đối thoại và tự chịu trách nhiệm khi chia sẻ hay bình luận về tác phẩm.
Cùng với những đổi thay tích cực, vẫn còn đó những góc tối cần được nhìn nhận. Không ít người chỉ chú trọng câu view, câu like, biến phê bình thành cuộc chơi mà ai cũng tự phong là quan tòa. Khi ấy, việc lãnh hội tác phẩm chỉ hớt váng, hời hợt và nông cạn. Nếu không biết gạn đục khơi trong, độc giả sẽ bị cuốn theo thị hiếu tức thời, khó phân biệt đâu là giá trị đích thực, đâu chỉ là nước sơn bóng bẩy.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển, sự can thiệp của trí tuệ nhân tạo (AI) đặt ra một thách thức lớn cho việc đọc và phê bình văn học. AI có thể làm thơ, viết tản văn, lập dàn ý truyện ngắn và đã từng tham gia cuộc thi văn học như trường hợp tại Nhật Bản. Dù nhiều người cho rằng AI còn lâu mới có thể tạo ra những tiểu thuyết chất lượng vượt trội, nhưng trường hợp cuốn Tokyo-to Dojo-to (Tháp đồng cảm Tokyo) của nữ tác giả Rie Kudan đã gây chú ý khi đoạt giải Akutagawa vào tháng 1 năm 2024, dù 5% nội dung cuốn sách được viết với sự hỗ trợ của AI.
Với độc giả, AI trở thành một công cụ “thay thế đọc” tiện lợi. Chỉ cần ra lệnh, AI có thể tóm tắt một tác phẩm đồ sộ như Chiến tranh và hòa bình trong vòng vài giây. Sự xuất hiện của AI đã đưa đến cuộc khủng hoảng cho phê bình. So với giai đoạn sau 1975, khi báo chí, tạp chí và các hội nghề nghiệp còn nắm quyền định hướng dư luận văn học, thì nay, sự tham gia của AI và mạng xã hội đã phá vỡ thế độc tôn ấy. Đây là cơ hội để dân chủ hóa hoạt động phê bình nhưng cũng là thách thức khi các chuẩn mực học thuật dễ bị lấn át. Triển vọng đặt ra là cần khai thác AI như công cụ hỗ trợ nghiên cứu, số hóa kho tàng văn học Việt Nam sau 1975, qua đó lưu giữ, phổ biến và quảng bá ra thế giới những thành tựu nửa thế kỷ qua.
Tuy nhiên, không ít bài đánh giá cảm tính, dạng nghe hơi nồi chõ, cùng lối phê bình sân khấu câu view đã lấn át tiếng nói học thuật nghiêm cẩn. Khi các hình thức video ngắn và nội dung giải trí mang tính đại chúng ngày càng chiếm ưu thế, diễn ngôn phê bình chuyên sâu dần bị đẩy vào thế mờ nhạt, độc giả có nguy cơ rơi vào tình trạng khó xác lập tiêu chí phân biệt giữa giá trị thẩm mỹ đích thực và hiện tượng nhất thời, và còn kéo theo sự suy giảm năng lực tự thẩm định văn chương.
Do đó, người đọc cần đọc đối thoại, đọc toàn diện. Hãy tự chiết xuất quan điểm của riêng mình sau khi đọc xong tác phẩm. Hãy để AI trở thành công cụ hỗ trợ chứ không phải công cụ thay thế tư duy. Đọc có văn hóa là biết kết hợp công nghệ với tinh thần nhân văn, để mỗi hành động đọc, viết, bình luận dưỡng nuôi cái đẹp và làm giàu đời sống tinh thần. Trong một thế giới tràn ngập bản tóm tắt và những đánh giá mang tính ăn xổi, sự đọc suy tư, phân tích kỹ lưỡng và sự kiên định lựa chọn càng cần được cân nhắc, đề cao.
Nhìn lại tiến trình văn học Việt Nam sau 1975, có thể thấy nền văn học đã trải qua nhiều chặng đường từ hiện thực hậu chiến đến làn gió Đổi mới và nay là những biến động của kỷ nguyên công nghệ số cùng trí tuệ nhân tạo. Trong bối cảnh ấy, cách đọc, cách viết và cách phê bình đều đổi thay nhưng việc giữ được bản lĩnh và tư duy độc lập vẫn là thách thức lớn nhất giữa thế giới nhiễu loạn thông tin. Viết là hành trình khổ hạnh của nhà văn, còn đọc là hành trình tự do của công chúng. Sự đọc hôm nay để khẳng định căn tính cá nhân, nuôi dưỡng tư duy phản biện và giữ gìn văn hóa đọc như một phần của đời sống tinh thần. Vượt qua lối đọc sơ sài, đại khái, chúng ta mới có thể tiếp nhận trọn vẹn giá trị văn học và tìm thấy chính mình. Công nghệ và mạng xã hội xét cho cùng chỉ là công cụ. Năng lực lựa chọn sáng suốt và sự tĩnh trí sẽ giúp công cụ ấy phát huy vai trò động lực, vượt qua mọi rào cản, trong tiến trình đưa văn học Việt Nam hội nhập vào văn hóa toàn cầu.