Trần Tiến người làng Điền Trì, tỉnh Hải Dương. Ông sinh giờ Dần ngày 18/11/năm Kỷ Sửu (1709), tên tự là Khiêm Đường, cũng có tên tự khác là Hậu Phủ, tên hiệu là Cát Xuyên, là con Tiến sĩ, Tham tụng Lễ bộ thượng thư - Diệu Quận Công Trần Cảnh, nhà nông học đầu tiên của Việt Nam. Ông đỗ tiến sĩ năm Mậu Thìn (1748), làm quan Công bộ Hữu Thị lang, Phó đô Ngự sử, tước Sách Huân Bá, là nhà sử học và nhà văn lớn ở thời Lê, tác giả các bộ sách: Đăng khoa lục sưu giảng (sử) Cát Xuyên thi tập (thơ) Cát Xuyên tiệp bút (ký) Niên phả lục (ký) Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (ký, biên khảo)…
Văn học trung đại Việt Nam, mở đầu từ năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, mở ra kỷ nguyên độc lập và phát triển của nhà nước Phong kiến Việt Nam 920 năm, đến năm 1858 thì bị người Pháp xâm lược. Thành tựu rực rỡ nhất của văn học thời kỳ này là thơ, có nhiều thi phẩm kiệt xuất từ thời Lý, Trần. Nhưng thể ký trong văn xuôi Việt Nam, phải đến năm 1755 mới xuất hiện, với tập ký đầu tiên là Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề. 9 năm sau (1764), tập kí thứ 2 mới ra đời, là Niên phả lục của Trần Tiến. PGS - TS Nguyễn Đăng Na đánh giá: đây là “bộ sách có giá trị lớn, nó đánh dấu một mốc quan trọng trên con đường phát triển văn xuôi tự sự Việt Nam, đặc biệt về thể ký…” Với thành tựu quan trọng đó, Trần Tiến đã “mở ra cho mình một lối viết riêng, không giống bất cứ một ai trước đó, đồng thời đặt nền móng cho những người đi sau noi theo, như Lê Hữu Trác, Phạm Đình Hổ…” (Lời giới thiệu Niên phả lục, Nxb Văn học, 2003).