Như chúng ta đều biết, văn học nghệ thuật là một lĩnh vực đa dạng, cảm nhận, bình xét về một tác phẩm còn nhiều ý kiến khác nhau (gần nhất là truyện ngắn được giải nhì cuộc thi của báo “Văn nghệ”…); vậy nên việc đánh giá cả nửa thế kỷ với hàng vạn tác phẩm của cả ngàn nhà văn cũng như hình dung triển vọng phát triển văn học thời gian tới hẳn sẽ có nhiều luồng ý kiến. Là một người tuổi cao, lại ít có điều kiện giao lưu, học hỏi tại các trung tâm có hoạt động văn học quan trọng như Hà Nội, TPHCM, tôi không dám bàn đến những vấn đề lớn có thể gọi là “luồng chính” mà chắc chắn đã và sẽ có nhiều tham luận hay, tôi chỉ xin góp một góc nhìn “bên lề”, để ít ra không trùng lặp làm mất thì giờ người nghe.
“Dòng chính” tất nhiên là quan trọng, nhưng “bên lề” cũng lắm chuyện. Trước hết, tôi xin nói đến “bên lề” về khía cạnh có thể xem là “phi văn chương” – đó là sáng tác của những nhà văn không/chưa là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, mà chúng ta hay nói vui là “nhà văn-không thẻ”. Tôi nêu vấn đề này do có “duyên” đọc kỹ 3 nhà văn-không thẻ: Hà Văn Thịnh, Phan Thúy Hà và Trần Bảo Định. Trong 4 cuốn sách tạm gọi cho vui là “phê bình ngoại hạng” (vì tôi không phải là nhà phê bình chính hiệu!) đã xuất bản hai chục năm qua (Hiện thực & sáng tạo tác phẩm văn nghệ: 2006. Trang sách, cuộc đời, nhà văn: 2014. Những cột mốc trên đường vô tận – 2018. Những trang sách thức tỉnh con người – 2022 – Cả 4 cuốn đều do NXB Hội Nhà văn cấp phép), tôi đã hơn một lần viết về các tác phẩm của 3 tác giả nêu trên đây. Theo tôi, 3 tác giả nêu trên đều có tác phẩm không thua kém gì các nhà văn tên tuổi, cả ba đều có bút pháp, cách tiếp cận đề tài riêng, dựng được không gian nghệ thuật để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm trí người đọc. Vậy nhưng nếu tôi không nhầm, cả ba không được nhắc đến trong các báo cáo tham luận có tính “tổng kết” những năm qua, trừ một bài viết của nhà phê bình Ngô Thảo có nhắc đến Phan Thúy Hà.
![]() |
| Nhà văn Nguyễn Khắc Phê . Ảnh Thanh Bình |
Nói cho công bằng, Hội Nhà văn cũng không chủ trương phân biệt tác giả trong và ngoài Hội khi khen thưởng hay tổng kết; bằng chứng là cây bút Nguyễn Thị Xuân Phựng không phải là hội viên, đã được trao giải cao nhất của năm với hồi ký “Gánh gánh… gồng gồng”. Tuy vậy, nếu tôi không nhầm, xã hội ta đã có nếp quen: trọng “cháu nội” hơn “cháu ngoại”; rồi còn bệnh a-dua nữa mà các báo “chính thống” đã lên án kiểu a dua “ném đá”, đả kích cán bộ này, nghệ sĩ nọ mà chẳng cần thật-hư, có khi chỉ là phút lỡ lời (báo Nhân dân ngày 17.9.2023; trang điện tử TPHCM năm 2019…). Nhưng theo tôi, còn tình trạng a dua khen nữa. Theo một trang báo điện tử đã dẫn thì “Người mắc bệnh a dua là những người không nói ra, không viết ra từ nhận thức, quan điểm, chính kiến của cá nhân mình mà theo đuôi, phụ họa theo cách nhìn nhận, quan điểm của người khác.” Căn bệnh này cũng gần với “hiệu ứng đám đông” diễn ra ngày càng nhiều. Hy vọng là trong hoạt động văn học không ai bị lây nhiễm “căn bệnh” xã hội này, nhưng có lẽ nên “cảnh giác”, vì nói dựa người khác – nhất là những tên tuổi quen thuộc với công chúng, vừa an toàn, vừa đỡ mất công nghiên cứu kỹ lưỡng. Còn tình trạng “cháu ngoại” dễ bị bỏ sót thì hình như vẫn xảy ra nơi nay nơi khác. Có thể thấy ngay điều này trong một bài báo có tỉnh “tổng kết” 80 năm văn xuôi trên một tờ báo lớn, 3 tác giả kể trên và cả nữ đạo diễn 90 tuổi Xuân Phượng không được nhắc tên. Riêng về thể ký, theo tôi, cuốn hồi ức “Tướng Cao Văn Khánh” dày gần ngàn trang do PTS. Cao Bảo Vân thực hiện, có giá trị hơn nhiều cuốn được nhắc đến trong bài viết kể trên… “Nói có sách, mách có chứng”, tôi dẫn một ví dụ gần nhất; chứ làm sao đòi hỏi một tác giả trong một bài baó có thể đọc hết hàng vạn tác phẩm và “điểm danh” đúng những tên tuổi sáng giá trong một thời đoạn dài. Đó là chưa nói, các tên tuổi không được nhắc đến có khi còn vì những lý do “ngoài văn học” mà chúng ta đều biết… Đây lại là loại “cháu ngoại” kiểu khác, là vấn đề ngoài văn học, nếu có điều kiện, sẽ nói vào dịp khác…
Vậy nên tôi đơn cử 3 tác giả nêu trên mà tôi có điều kiện đọc kỹ – và tất nhiên còn các tác giả khác chưa phải là hội viên cũng có tác phẩm xuất sắc mà chỉ đứng “bên lề” các cuộc “tổng kết” – trước hết, như là một bổ sung làm phong phú thêm diện mạo 50 năm văn học vừa qua. Về khía cạnh tổ chức, thì đơn giản chỉ là một đề nghị Hội Nhà văn Việt Nam và các cơ quan quản lý, các nhà nghiên cứu phê bình khi đánh giá một giai đoạn sáng tác văn học, cần mở rộng “tầm ngắm” đến các tác giả không phải là hội viên và không gần các “trung tâm”… Có thể đây cũng là vấn đề đặt ra trong Hội thảo Tổng kết 50 năm văn học hôm nay.
Nếu muốn vắn tắt thì có thể kết thúc tham luận tại đây. Nhưng có lẽ cần nói đôi điều về văn chương của 3 tác giả nêu trên, để chúng ta cùng xem họ có đóng góp gì, có đặt ra được vấn đề gì đáng kể, khi nhìn lại hoạt động 50 năm văn học vừa qua hay không.
***
Trước hết xin nói đến nhà văn Hà Văn Thịnh (1955-2019) vì anh là người không cần chi hưởng thụ ở thế gian nữa – “cái quan định luận”, nói về tiểu thuyết “Tro và lửa lạnh” của HVT tại một Hội thảo ở Đà Nẵng còn có ý nghĩa vì nhiều chương trong tiểu thuyết diễn ra tại thành phố này và một nhân vật chính là Cẩm Chi con gái đại tá-tỉnh trưởng Đà Nẵng trước 1975 – tên nhân vật cũng là tên con gái anh hiện đang ở Đà Nẵng.
Hà Văn Thịnh không phải là cây bút có nhiều thành tựu về văn xuôi, nhưng anh khởi thảo “Tro và lửa lạnh” vào lúc đất nước bắt đầu công cuộc Đổi mới, tạo đà cho giới văn nghệ sĩ phát huy trí sáng tạo – tác giả hoàn thành Phần I năm 1988 và Phần II cuối năm 1990, có điều kiện “rút kinh nghiệm” thành bại của người đi trước, kể cả nhiều tên tuổi lớn của thế giới, nên tác phẩm của anh đã tránh được nhược điểm của loại văn “già ký non truyện”. Sau khi sữa chữa, bổ sung, tác phẩm “Tro và lửa lạnh” được NXB Tổng hợp & Công ty Tao Đàn Đà Nẵng tái bản cuối năm 2019 kịp trước lúc anh qua đời vì ung thư. Bối cảnh chính của “Tro và lửa lạnh” là Đà Nẵng, Huế, mở rộng ra Quảng Trị (trong chiến dịch “Lam Sơn 719” – có tên gọi khác là “Đường 9-Nam Lào”) trong khoảng thời gian từ 1969-1971. Tác giả không dựng tiểu thuyết kiểu “sử thi”, không-thời gian có giới hạn, tuy tác phẩm có dung lượng khá lớn – 61 chương với 600 trang khổ lớn; theo tôi hiểu, đây là sự lựa chọn đủ để các nhân vật hoạt động hết “công suất”, đồng thời nhà văn vẫn có thể chuyển tải những vấn đề cốt lõi của cuộc chiến tranh. Theo tôi, “Tro và lửa lạnh” là một tiểu thuyết “chính hiệu” xuất sắc, nhưng hầu như chưa được một nhà phê bình tên tuổi nào nhắc đến. Cũng dễ hiểu vì anh chỉ là thầy giáo bình thường dạy Sử tại Trường Đại học Tổng hợp Huế, chỉ mới đăng một số truyện ngắn trên các tạp chí địa phương với bút danh Tô Vĩnh Hà…
Tôi nhắc đến tiểu thuyết “Tro và lửa lạnh” vì theo hiểu biết có hạn của tôi, từ tác phẩm này có thể thấy rõ hơn một vấn đề – một nhược điểm của đa số tiểu thuyết viết về chiến tranh 50 năm qua; đó là chỉ miêu tả một phía và thường bám vào một chiến dịch nên bị gò bó, đơn điệu cả về không gian nghệ thuật và nhân vật. Cũng đã có tiểu thuyết miêu tả cả đối phương, nhưng chủ yếu trên mặt trận. Hà Văn Thịnh chọn nhân vật chính là đại úy-điệp viên Vũ Khuê mai phục 8 năm trong hàng ngũ đối phương, tuy chỉ giới hạn hoạt động trong một sư đoàn biệt động quân đội Sài Gòn, “nhưng thử thách cân não với những tình huống sinh tử và cả chuyện tình yêu thì nhiều kịch tính hơn, phong phú hơn cả anh hùng Vũ Ngọc Nhạ, nên anh là nhân vật tiểu thuyết khá thành công. Mặt khác, qua “góc nhìn” của Vũ Khuê – sĩ quan tham mưu theo sát các trận đánh, tác giả miêu tả đối phương như “người trong cuộc” và bạn đọc như được tận mắt chứng kiến sự tàn khốc của chiến tranh, sự hy sinh vô bờ bến của quân dân ta. Và bản thân Vũ Khuê phải nén chịu những nỗi đau hơn Vũ Ngọc Nhạ: Nhiều lần, anh tận mắt chứng kiến đồng bào mình bị kẻ địch sát hại dã man mà đành bó tay; có lần biết kẻ địch sẽ dùng súng phun lửa thiêu cháy các chiến sĩ ta cố thủ trong hang mà không có cách gì báo với “bên ta” vì anh đang bị chúng nghi là “Việt cộng”, như một con cá bị lưới vây tứ bề. Hơn thế, tác giả đã đặt Vũ Khuê trước những lựa chọn khó khăn không chỉ với một điệp viên – mà với mọi con người bình thường, một khi anh muốn giữ phẩm chất một CON NGƯỜI viết hoa. Đó là các cặp giá trị thuộc phạm trù nhân cách-đạo đức luôn hiện diện trong các mối quan hệ, nhưng anh nhất thiết phải chọn một: tình riêng-nghĩa vụ; trung thực-dối trá; tàn nhẫn-từ tâm… Và như thế, tác phẩm viết về cuộc chiến nửa thế kỷ trước vẫn có ý nghĩa đối với đời sống hôm nay…”
Tôi đã viết bài dài trên 6000 chữ về tiểu thuyết này đăng tạp chí “Nhà văn & cuộc sống” năm 2021, nhưng có lẽ cả người viết phê bình và tác giả tiểu thuyết đều không phải là tên tuổi được chú ý, nên rất may chưa bị ai chê trách và được nhà thơ-TBT Trần Đăng Khoa cho đăng nguyên văn thì tự xem là một lời khen, nhưng chưa hẳn đã có nhiều người đọc! Vậy nên trích thêm một đoạn:
“…Không chỉ với nhân vật chính Vũ Khuê, hai nhân vật Cẩm Chi và Dickinson cũng được tác giả “chăm sóc” kỹ lưỡng, đặt họ vào những tình huống gay cấn, bộc lộ tâm lý rất phức tạp của con người. Cẩm Chi là con gái đại tá tỉnh trưởng Đà Nẵng, khi không thể che giấu tình yêu với Vũ Khuê cũng là lúc cô hiểu anh là Việt cộng thứ thiệt; trớ trêu hơn nữa, thiếu tá Nguyễn Vinh Quang, kẻ chủ trò giăng lưới quyết bắt Vũ Khuê lộ mặt Việt cộng cũng yêu Cẩm Chi nhưng bị cô từ chối; còn Dickinson là tên C.I.A cáo già, con trai một chính khách Mỹ thân thiết với tổng thống Mỹ, từng được Vũ Khuê cứu thoát khỏi làn đạn trong một trận càn ác liệt, lại là kẻ phát hiện dấu vết khẳng định Vũ Khuê là Việt Cộng… Chỉ “tóm tắt” vài mối quan hệ đã thấy các nhân vật đều trải qua những thách thức hết sức ngặt nghèo. Tác giả tỏ ra rất già dặn khi phân tích những trăn trở phức tạp trong các nhân vật đó. Bên cạnh Nguyễn Vinh Quang tàn độc, nham hiểm, Cẩm Chi càng nổi bật là hình tượng ngời sáng của một thanh niên dám vượt qua hoàn cảnh, quyết bảo vệ những gì mà cô tin là tốt đẹp, cả lúc cô bị Nguyễn Vinh Quang bắt cóc nhốt vào hầm kín, hòng buộc cô khai nhận các “dấu vết” Việt cộng của Vũ Khuê…
“Tro và lửa lạnh” hấp dẫn không chỉ nhờ thế mà còn do tác giả có cái nhìn lịch sử, khoa học và nhân văn, không miêu tả các nhân vật đối phương toàn là những kẻ tàn bạo, ngu ngốc, mất hết nhân tính. Xét về phương diện “địch-ta”, nếu kẻ địch như thế, cuộc chiến tranh không thể kéo dài… »
Cách nhìn khoa học và nhân văn như thế đã tạo cho tác phẩm có tính đa thanh phong phú. Câu chuyện Vũ Khuê xuống thăm người yêu khi đi trực thăng ra mặt trận Quảng Trị là “vô tiền khoáng hậu” và thật là “đa thanh”, vì chính cố vấn Mỹ Dickinson “gợi ý” và “hối lộ” 100 đô-la để viên phi công thực hiện vụ hạ cánh rất có thể khiến y ra tòa án binh. Và sinh viên Cẩm Chi, từ Trường Đại học Sư phạm Huế, đã băng qua công viên Tứ Tượng, ra bờ sông Hương gặp đại úy biệt động quân trong bộ áo rằn ri.“Anh hôn cô say đắm. Hai bàn tay anh luồn vào làn mái tóc mềm óng mượt… Như hiểu lòng anh, cô ôm chặt hơn, siết mạnh vào mình. Anh thảng thốt: “- Đừng buồn nhiều… Gắng học… Nghe em.” Như chỉ chờ có thế, cô khóc…” Nhưng 10 phút đã qua, Dickinson bắn pháo hiệu màu đỏ… “Vũ Khuê nhìn đồng hồ, anh trễ một phút… Anh bồng cô qua đến đầu cầu Trường Tiền, mặc hàng chục ngàn con mắt từ trên cầu nhìn xuống, từ Đài Phát thanh nhìn sang…”
Tất nhiên là nhà văn “hư cấu”; và tôi đã thầm nghĩ rằng “hư cấu thế này thì quá đà”; nhưng cuộc đời lắm điều kỳ lạ và mọi sự đều có thể… Chính tại buổi chị Xuân Phượng gặp gỡ bạn đọc Huế trong buổi ra mặt hồi ký “Gánh gánh… Gồng gồng”, dịch giả Bửu Ý đã kể cho tôi nghe một chuyện kỳ lạ tương tự: Một trực thăng Mỹ, từ Hạm đội 7 đã đáp xuống bờ sông Hương để chở một đứa bé con anh bạn Bửu Ý bị bệnh hiểm nghèo ra Hạm đội cứu chữa; họ nhờ Bửu Ý đi theo phiên dịch!… Một câu chuyện thật 100% mà Phan Thúy Hà vừa co in trong cuốn sách mới nhất của cô, cũng có chi tiết máy bay trực thăng Mỹ chở trẻ bị thương ra Hạm đội 7, khi cuộc chiến trên đường số 9 (Quảng Trị) đang hồi khốc liệt…
Tính đa thanh càng hiện rõ trong nhiều cuộc tranh luận, đàm đạo giữa các sĩ quan cấp sư đoàn với những đề tài rất nhạy cảm và nguy hiểm – nhất là đối với Vũ Khuê, điệp viên đang bị đặt vào vòng ngắm của C.I.A và thiếu tá Nguyễn Vinh Quang – mà anh coi như một con rắn độc nham hiểm sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn triệt hạ mình. Trước những vấn đề “hóc búa” họ gợi ra như so sánh quân đội cộng sản và lính Việt Nam Cộng hòa, nhận xét về sức mạnh nước Mỹ, dự đoán thắng hay bại trong chiến dịch “Lam Sơn 719, chuyện đĩ điếm… cả về chủ nghĩa Mác, Chúa và Descartes nữa, giọng điệu của hai cố vấn Mỹ và những kẻ như Quang, nếu Vũ Khuê không cao tay thì rất dễ “vỡ trận” hoặc chửi bới nhau…
Có lúc Vũ Khuê tưởng không tìm được lối thoát trước vấn đề nan giải, nhất là sau khi trung tá cố vấn “Dorchester đã thành thật hơn cả mức một người đối thoại cần phải có. Y chỉ trích trực tiếp một tướng lĩnh cao cấp. Y nói tiếp: “- Việt Nam là một đất nước kỳ lạ, nhưng Vi-xi thì quả là một loại người kỳ quái!”… Và y dẫn lời bình luận báo Washington Post: “Người Mỹ không thắng tức là đã thua, và Vi-xi không thua nghĩa là họ đã thắng”; tên cố vấn cáo già hỏi thẳng: “Ông Vũ Khuê, ông có đồng ý với tôi không?”
Không tiện trích dẫn dài, nhưng Hà Văn Thịnh không “hổ thẹn” là tác giả đã “đẻ” ra nhân vật điệp viên có trí tuệ như Vũ Khuê; anh đã tìm được câu “trả lời “có thể “đỡ đòn” ít liều lĩnh nhất.” Anh dẫn cả Lão Tử từng viết: “Trong tất cả mọi điều nguy hiểm, đáng sợ nhất là coi nhẹ kẻ thù của mình” và dẫn lời Tổng thống L.B. Johnson bằng tiếng Anh và bình luận quan điểm của R. Nixon rất khác về tài giảm lực lượng Mỹ… »
Cuộc đụng đầu cuối cùng của Vũ Khuê và Dickinson tại đồi Sadi không chỉ đầy kịch tính với đấu trí và đấu súng giữa khung cảnh ngút trời bom đạn trong chiến dịch đọ sức đôi bên “Lam Sơn 719” có tầm mức gần như Điện Biên Phủ 1954, mà chính nơi đây, hai địch thủ buộc phải nổ súng giết nhau, lại thốt lộ những nghịch lý khiến bạn đọc hẳn phải thao thức. Trong khi “con rắn độc” Nguyễn Vinh Quang dùng mọi thủ đoạn thâm hiểm không phát hiện được “mặt thật” của Vũ Khuê, thì Dickinson đã có bằng chứng xác thực về người điệp viên này. Nhưng, “Khốn thay, Dickinson cũng có một trái tim của một con người bình thường… Y quý mến Vũ Khuê thật lòng… Nửa năm qua, cuộc đời đã đem đến cho y một người bạn tốt. Y thầm cảm ơn Chúa vì điều ấy. Không phải y quý Vũ vì Vũ đã cứu sống y…nó chỉ là duyên cớ, để họ hiểu và thân nhau…” Cái “tình bạn” rõ là nghịch lý này đã ngăn Dickinson chưa nộp Vũ Khuê cho tòa án quân sự để anh phải chịu “một cái ản tử hình sau hàng loạt những đòn tra tấn tàn khốc, độc ác của Nguyễn Vinh Quang…” nhưng y “cũng không thể thả Vũ Khuê. Lương tâm của y, nghĩa vụ một người lính, trách nhiệm với nước Mỹ tuyệt vời của y không cho phép y làm thế…”
Cho đến lúc cả hai đối đầu trên đồi Sadi, trong tình thế cấp bách, khi Vũ Khuê quyết định chiếm điện đài đối phương để thông tin cho “ở nhà” kế hoạch địch rút quân, không ngờ bị Dickinson theo sát phát hiện; y buộc Vũ Khuê đầu hàng, nhưng chưa nổ súng; y nói thẳng “tao cũng không muốn giết mày. Thật tình, tao tiếc cho một người như mày, tiếc một tình bạn đã từng có… Tao là một người thích sòng phẳng…” Và y nhắc lịch sử đã có kẻ bán cả một quốc gia, rồi đề nghị Vũ Khuê “bán” những bí mật mạng lưới tình báo để đổi lấy sự sống. Anh nhất định “Không”; cũng không chịu quay lưng “- Tao không bao giờ để đạn dính vào lưng”; Dickinson thì “tao không muốn nhìn mặt mày”… Một phát đạn M.79 nổ bên cửa hang, quân “giải phóng” sắp tràn lên. Thấy Vũ Khuê có dấu hiệu tháo chạy, Dickinson nổ súng và cũng lập tức dính đạn đối thủ. Y chưa chết, còn mở mắt thì thào “- Vũ… hiểu… bạn…” Người Vũ đầm đìa máu, nhưng anh còn đủ sức vuốt mắt cho Dickinson và lục ba lô lấy “bí mật” có thể đưa anh ra pháp trường… »
Có lẽ với những điều đã trích dẫn, tôi hy vọng tiểu thuyết “Tro và lửa lạnh” cũng đủ làm rõ thêm một vấn đề khi tổng kết và cả hướng phát triển văn học về đề tài chiến tranh trong giai đoạn mới là khi viết về chiến tranh, hẳn là nên miêu tả cả 2 phía mặt trận và có lẽ cần tránh cách diễn tả kẻ địch chỉ là những tên sát máu và ngu xuẩn…
Trường hợp Phan Thúy Hà lại gợi một vấn đề khác, cũng liên quan đến đề tài chiến tranh. Khác với Hà Văn Thịnh, gần chục năm qua, Phan Thúy Hà nổi tiếng với 6 cuốn sách phi hư cấu, mỗi cuốn có hàng ngàn người đọc nhưng tác phẩm của cô vẫn ở “bên lề” các cuộc tổng kết. Nếu tôi không nhầm, PTH không được dư luận “chính thống” quan tâm, chủ yếu vì sách của cô chủ yếu viết về những số phận bất hạnh đến cùng cực – trong đó phần lớn thuộc về “bên thua cuộc” hoặc là nạn nhân CCRĐ! Thậm chí cuốn sách mới nhất (“Những ngày tháng năm” – NXB Văn hoá-Thông tin) cô phải lấy bút danh là Sơn Khê mới xuôi lọt. Tôi mong rằng là mình đã hiểu lầm, chứ chiến tranh qua đã nửa thế kỷ, mà vẫn còn cách nhìn phân biệt trước nỗi đau khổ của đồng bào mình chỉ do họ ở hai phía chiến tuyến trước 1975 là điều rất đáng tiếc! Chúng ta từng biết tuyên ngôn “Tôi đứng về phía nước mắt” của nhà thơ Dương Tường được rất nhiều người ngưỡng mộ. Maxim Gorky – bậc thầy của nền văn học Nga Xô viết – là nhà văn của “những người cùng khổ”, của lớp người “Dưới đáy”. Phần lớn kiệt tác của nhân loại là những câu chuyện khổ đau của con người nơi trần thế. Ở Việt Nam, “Truyện Kiều” là một bằng chứng hiển nhiên.
Mà trên những trang sách của Phan Thúy Hà đâu phải chỉ có “nước mắt” mà còn lòng nhân ái, cả vẻ đẹp của con người đã vươn lên trong nghịch cảnh…
Tôi cũng như nhà phê bình Ngô Thảo, nhà văn Trần Huy Quang, Thái Kế Toại… đã hơn một lần viết về Phan Thúy Hà. Tôi bước vào đường văn chính bằng thể loại phi hư cấu – tập ký sự “Vì sự sống con đường” (NXB Thanh niên, 1968) viết về cuộc chiến đấu anh hùng trên đường 12A dưới chân đèo Mụ Giạ và đã “thầm nhủ viết một cuốn sách như nhà văn Nguyễn Khải viết về Cồn Cỏ.” Do mục đích viết là nêu gương, cổ võ tinh thần chiến đấu, nên âm hưởng chính của hai tập ký sự tôi vừa nhắc đến là ngợi ca, ít nói đến những mất mát đau thương. Bây giờ nhìn lại, những cuốn sách như thế tuy chưa thể hiện được toàn bộ sự thật cuộc chiến đấu – cũng là sự thật lịch sử, nhưng vẫn cần thiết; nó không chỉ có ích cho cuộc chiến đấu đang lúc gay go mà hình ảnh những chiến sĩ quên mình vì nghĩa lớn vẫn là tấm gương cho hậu thế noi theo vì cuộc sống luôn cần những con người có tinh thần cao cả, dám dấn thân vào nơi đầu sóng ngọn gió như trong đại dịch Covid-19 hay cuộc chiến chống lại mọi trò làm ăn dối trá, sản xuất thực phẩm giả, thuốc giả bất chấp sinh mạng con người kiểu “tư bản man rợ” đang xuất hiện khắp nơi như hiện nay.
Cho dù vậy, tôi kính nể Phan Thúy Hà – cây bút trẻ xuất thân từ một vùng quê hẻo lánh huyện Hương Khê vì cô đã có can đảm chọn con đường riêng. Trong sáng tạo văn học, đây là yếu tố quan trọng hàng đầu. Quả là Phan Thúy Hà đã theo một phương cách có lẽ chưa có tiền lệ ở Việt Nam: tác giả ghi lại chân thực theo lời kể của người trong cuộc – thực sự là “người trong cuộc”. Vẫn là theo “lời kể”, nhưng cô không ngại vất vả và cả nguy hiểm, tìm đến những nhân chứng tự mình trải nghiệm, hoặc tận mắt chứng kiến. Do đó, trên những trang sách của cô, có rất nhiều chi tiết chân thực “không ai có thể hư cấu đến độ khốc liệt như vậy được” như nhà văn Trần Huy Quang đã nhận xét. Khác với nhiều cuốn sách “phi hư cấu” trước đây, Phan Thúy Hà không “bận tâm” đến diễn tiến các sự kiện lớn, không bình luận chuyện “thắng-thua” mà chỉ theo đuổi số phận từng con người, hầu hết là những con người trong “góc khuất” của lịch sử.
Xin dẫn một cảnh ở chiến trường Gia Lai, trích từ bài “Bàn tay này đã thu nhặt bao nhiêu xác lính?” trong cuốn sách “Đừng kể tên tôi”, theo lời kể của ông Nguyễn Doanh Văn (xin lược bớt phần địa chỉ cụ thể): “…Lưỡi rụt nên bác diễn đạt chậm. Đi lại cũng chậm chạp, Không gian di chuyển của bác là trong ngôi nhà… Nói làm gì. Nói cho ai nghe. Nói cho ai tin. Sự việc qua lâu rồi. Mà tôi cũng sắp gần đất xa trời rồi… Những câu này tôi nghe nhiều mấy hôm nay… Họ không muốn nói gì nữa. Bởi họ đã phải im lặng quá lâu rồi. Bởi vì họ từng nói. Nói từng lời đau đớn ruột gan. Nhưng người ta không tin… Cần chứng minh là giấy tờ. Giấy tờ? Tôi vứt hết đi rồi. Mang được cái xác về. Ai biết có ngày giấy tờ quan trọng hơn xác người… Bàn tay này đã thu nhặt bao nhiêu xác lính?… Ba năm, đếm làm sao hết người đã chết. Đơn vị phân công mỗi người phải mang ba hoặc năm bộ hài cốt tập kết về nghĩa trang sư đoàn… Đào bới lên. Bốc. Một cái dao găm. Và hai bàn tay. Róc hết phần thịt. Lấy xương đi… Chúng tôi được bồi dưỡng một hộp thịt hộp. Mở ra… Tôi nôn thốc nôn tháo… Nhìn đâu cũng thấy thịt đồng đội mình vừa róc ra… Năm 1976, tôi thân tàn ma dại trở về. Ba lần bà ấy sẩy thai. Lần thứ tư sinh đứa con không có miệng… Lần sinh thứ năm là đứa con thiếu một ngón tay, thiếu một ngón chân. Vậy đấy!. Có gì hay đâu mà cô muốn nghe. Tôi không có thành tích gì để kể…”
Như ở trên đã viết, Phan Thúy Hà không phân biệt những số phận thua thiệt ở bên nào trong cuộc chiến. Ông Nguyễn Doanh Văn là cựu binh “bên thắng cuộc”. Còn một câu chuyện trong cuốn sách “Tôi là con gái của cha tôi” là tình cảnh một gia đình ở Quảng Trị, không hẳn là thuộc bên nào trong cuộc chiến. Không chỉ có sự thua thiệt, nỗi thống khổ của một lớp người mà còn lấp lánh những đốm sáng. Đó là sự từ tâm, là bản lĩnh, là sức sống kỳ lạ của con người vượt lên bất hạnh. Hơn thế, còn có cả những tấm gương đáng gọi là anh hùng. Đó là “Bà mẹ Cam Lộ” – mẹ của “lính ngụy” (1 người là địa phương quân, 1 là lính dù) nhưng lại có người con đi tập kết, có chồng tham gia chống Pháp từ 1942, rồi làm xã đội trưởng, chính trị viên huyện Cam Lộ, hy sinh năm 1967. Mẹ là cơ sở nuôi giấu cán bộ, tiếp tế cho cách mạng, bất chấp bị bắt, tra tấn không biết bao lần!
“… Tôi sờ lên mười ngón tay mẹ không thể duỗi thẳng ra được nữa. Mười ngón tay mẹ co quắp suốt đời vì bị chích điện. Mảng da sau lưng mẹ chảy máu. Một bên mông bị lở loét lên giòi. Mẹ không khai… Mẹ thành người tàn tật suốt đời..”
Một lần, sau khi mẹ bị bắt, tra tấn dã man, người con là lính địa phương quân nhắn cho anh là lính dù Sài Gòn. Anh tức tốc bay ra, “tay cầm quả lựu đạn xông vào Ban Hai hét lên: Tại sao bắt mẹ tôi? Tại sao đánh mẹ tôi?… Anh em tôi đi lính cho ai?…” Nhưng đến đầu năm 1971, anh bị mìn gãy xương sống tại chiến trường Campuchia. “Anh bị liệt. Chỉ còn một cánh tay phải cử động được… Ngày 1 tháng 5, vợ anh đưa anh từ Sài Gòn về… Một buổi trưa, chị đi cày về thấy chồng đã chết. Anh đã dùng cánh tay còn cử động được cầm cây dao kết thúc số phận mình. Cục sắt nguội là mẹ đổ gục bên anh…”
Đọc sách của Phan Thúy Hà xong, tôi nhắn cho một bạn đồng hương (với cả tôi và Phan Thúy Hà) là cựu lãnh đạo Hội Nhà báo Việt Nam, nhờ anh nói với anh Phan Quang, khi biết anh sắp đến thăm vị nhà báo-nhà văn-dịch giả 91 tuổi vẫn in sách đều đều, trong đó có mấy cuốn cũng thuộc loại “phi hư cấu”, rằng: “Có cô gái vừa viết về bà mẹ “lính ngụy” thừa tiêu chuẩn phong anh hùng ở ngay quê anh đó! Không biết anh còn sức đọc không?” Sách “phi hư cấu” của “lão làng” Phan Quang cũng nhiều chuyện nhân vật có thật, nhưng phần lớn là hình ảnh cao cả, tốt đẹp.
Bài đã quá dài, không thể trích dẫn thêm. Chỉ xin dẫn thêm vài nhận xét về nghệ thuật sách « phi hư cấu » của Phan Thúy Hà để thấy sách của Phan Thúy Hà được chú ý không chỉ vì chất chứa lớp lớp sự thật.
Tác giả Lê Minh Hà, trên Facebook của mình nhận xét văn của Phan Thúy Hà “Giản dị tận cùng… lặn vào trong ký ức cùng người kể, không tô vẽ, không nống lên, không bình luận. Rất hay, vì rất đau”.
Còn nhà phê bình Đặng Tiến ở Pháp đánh giá cao chỉ với một dòng vắn tắt: “Văn của chị ấy đã tẩy trắng các biện pháp tu từ, lối viết nơi chị đạt tới “độ không”…”
Như vậy, có lẽ cũng nên bổ sung tên Phan Thúy Hà khi tổng kết văn học 50 năm qua và đề tài về những con người bất hạnh ở cả hai bên chiến tuyến vẫn đang chờ những nhà văn sung sức và cả can đảm nữa…
Trường hợp thứ ba: nhà văn Trần Bảo Định. Bài đã quá dài, xin viết gọn như sau. Có thể nói, Trần Bảo Định là một nhà văn không thẻ đặc biệt.
Tôi dùng từ “đặc biệt” với nhiều “căn cứ”. Trẩn Bảo Định sinh tại làng An Vĩnh Ngãi (Long An) năm 1944, vừa trải thượng thọ bát tuần. Đời văn ông lão 80 này chỉ có hơn chục năm thôi, lại là nhà văn-không-thẻ! Vậy mà nhìn trang ảnh 33 bìa sách khi ông “tổng kết” đời văn của mình, nhiều nhà văn có thẻ chính danh lâu năm và chăm viết, vẫn chào thua. Đã đành, văn chương “quý hồ tinh…”; 33 cuốn sách của Trẩn Bảo Định không phải đều tuyệt tác, nhưng ít có nhà văn nào nhanh chóng có các tác phẩm được nghiên cứu sinh nhiều trường đại học chọn làm luận văn như Trẩn Bảo Định – nhất là các trường đứng chân trên vùng đất mở cõi phía Nam. Mặt khác, trong khi không ít nhà văn in sách chủ yếu để biếu, tặng hoặc “phát hành” theo các “kênh” thân hữu, thì hầu hết sách của Trẩn Bảo Định được các NXB đầu tư đưa ra thị trường, mỗi cuốn đều in từ 1.500 đến 2.000 bản, mà hầu như không hề có chiêu trò PR nào và truyện của anh cũng chẳng hề chiều nịnh thị hiếu tầm thường (như giết-hiếp hay sex…). Những điều này đã chứng tỏ tác phẩm của Trẩn Bảo Định đã đạt đến những giá trị nghệ thuật và nhân văn có sức cuốn hút độc giả.
Trần Bảo Định từng là sinh viên văn khoa (ban Triết) Đại học Đà Lạt. Học vấn ban đầu ấy đã giúp anh tự học, nghiên cứu không ngừng. Với vốn kiến thức phong phú, lại có vốn sống giàu có do TBĐ tham gia cách mạng từ thời còn là sinh viên và liên tục hoạt động trong một ngành có điều kiện tìm hiểu, bám sát các vùng đất phía Nam suốt những năm chiến tranh, Trẩn Bảo Định đến với làng văn muộn nhưng đó là lúc cây bút tràn đầy năng lượng.
Nhờ thế, chỉ nói riêng về “đề tài” (thuật ngữ bao gồm tư liệu, sự kiện, bối cảnh câu chuyện, không-thời gian miêu tả…) tác phẩm của Trẩn Bảo Định cung cấp cho bạn đọc một khối lượng kiến thức có thể gọi là “khổng lồ” về vùng đất phía Nam phì nhiều, giàu sự tích lịch sử và cách mạng. Chúng ta được thấy hầu như toàn bộ lịch sử và đời sống ở đây, từ thời “mở đất” đến những cuộc chiến đấu anh hùng chống ngoại xâm, từ tên các sông rạch đến quá trình hình thành những đền miếu trên mọi vùng quê, từ các món ăn dân giã đến những câu ca dao và giai thoại, từ rừng đước giữ đất cùng nhiều loại cây cỏ đến nhiều loại chim cò, cua cá… Vào lúc “văn học tư liệu” đang được độc giả quan tâm, chưa nói đến nghệ thuật thể hiện, đây cũng là một giá trị đáng kể khi bàn đến tác phẩm của Trần Bảo Định.
Tất nhiên, nếu chỉ có tư liệu thì Trần Bảo Định không thể lôi cuốn được độc giả liên tục qua mấy chục cuốn sách. Việc nghiên cứu phân tích các thủ pháp, phong cách nghệ thuật của Trần Bảo Định một cách kỹ lưỡng, các nghiên cứu sinh làm luận văn thạc sĩ, tiến sĩ đã phân tích khá kỹ lưỡng. Ở đây, tôi chỉ xin nêu mấy nét nổi bật chỉ từ một truyện “Thương những ngày…” ở cuối tập sách cùng tên – một truyện ngắn chứa đựng cả 3 nét đặc sắc của Trần Bảo Định: vừa như một nhà “sinh thái học”, vừa là người kể chuyện dân gian hiện đại và khéo chuyển tải một nội dung “sử thi” trong chục trang giấy. Chỉ với hai nhân vật “bé mọn” ở làng quê có con sông Bảo Định – chứ không phải là tướng tá, chính khách hay đại phu nhân – mà tác giả đã dựng nên một thiên tình sử đậm chất nhân văn, dân dã mà cao thượng. Có cảnh thơ mộng giữa một vùng sông nước “níu sương là đà khói sóng…, ếch nhái đua nhau kêu dậy đất gọi bạn tình”, đêm về khuya vọng tiếng hò tha thiết “Thò tay anh bứt cọng ngò/ Thương em đứt ruột giả đò ngó lơ”, đôi bạn Sáu Tý và Hai Lan đi bắt ếch, bắt gặp cặp “ếch đực nằm dính khắng trên lưng ếch cái và khi gặp ánh đèn, ếch đực có thể buông bạn tình thoát thân; song nó không làm vậy, thà cùng bị chụp chung số phận với bạn tình, hơn là buông nhau, nhảy trốn!….” Tả cảnh tình tứ loài vật và thiên nhiên là khúc nhạc dạo cho vở bi kịch về con người; trước ngày Hai Lan bị ép gả cho Tư Cò, con trai một Cả Dẫn và lại là lính Dân vệ đồn Cây Bần, cô quyết định hiến thân cho người yêu trên chòi vịt, nhưng chuyện đáng phải xảy ra đã không xảy ra vì Sáu Tý nói: “– Anh không thể lấy cái không thuộc về anh!” Sáu Tý hôn Hai Lan, nụ hôn vĩnh viễn không là của nhau.” Rồi chiến tranh, Sáu Tý thành quân giải phóng, 10 năm sau trở về chốn xưa thì mới hay Hai Lan thành phu nhân đồn trưởng Tư Cò, nhưng Tư Cò bị giết, lại bị vu loạn luân với bố chồng là Cả Dẫn, cô tự tử, lấy cái chết để tỏ mình trong sạch… Chuyện tương tự như vậy cũng đã có sách viết, nhưng TBĐ “cao tay” hơn, khi để Sáu Tý gặp bé Chuột, đứa con gái mồ côi của Hai Lan sống cô đơn vì “kẹt giữa hai làn đạn”, ông đã nhận Chuột làm con, mặc dù thủ trưởng can ngăn: “- Đồng chí có biết làm vậy là mất lập trường và đã mất lập trường, thì không thể…”.
Hai tháng sau, Sáu Tý ra quân!
Chẳng đắn đo, Sáu Tý điềm nhiên làm thủ tục nhận bé Chuột là con gái của anh cho dù, đó là con gái của đối phương – viên đồn trưởng – Với anh, trẻ thơ vô tội và lại càng không nên để chúng dính dáng gì tới máu xương của cuộc chiến! Người lớn vẽ bùa, sao lại bắt tụi nhỏ phải đeo?…”
Tôi trích nguyên bản dài một chút vì đoạn văn vừa thể hiện phong cách có thể gọi là “sử thi cô đúc” của TBĐ, vừa chứng tỏ bản lĩnh chính trị của nhà văn, dám vượt qua nếp nghĩ xơ cứng quen thuộc. Mặt khác, thái độ sống quyết liệt và phóng khoáng của Sáu Tý đã thể hiện một tính cách tiêu biểu của người dân Nam Bộ…
Một điều cũng nên nói thêm là những năm gần đây, Trần Bảo Định dành nhiều tâm sức cho các công trình nghiên cứu, thể hiện qua gần chục cuốn sách đã xuất bản, trong đó bộ sách 3 tập “Đất Viết Trời Nam liệt truyện” và “Dấu thời gian” được nhiều người tìm đọc, nhờ tác giả kết hợp khéo léo giữa nguồn tư liệu phong phú và nghệ thuật kể chuyện. Và cũng phải có bản lĩnh chính trị vững chắc, TBĐ mới có thể viết về các nhân vật sớm biết tìm đường cứu nước nhưng có tiểu sử không hề đơn giản như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu… trong sách “Dấu thời gian”.
Theo tôi, không có chi ngần ngại khi ghi tên Trần Bảo Định tiếp sau Đoàn Giỏi, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng,Trang Thế Hy … – những nhà văn Nam Bộ tên tuổi, bằng các tác phẩm xuất sắc của mình, đã miêu tả con người và vùng đất mở phía Nam Tổ quốc thật sống động, được nhiều thế hệ bạn đọc truyền tụng. Được biết, Trần Bảo Định đang phải đếm từng ngày níu giữ cuộc sống ở giai đoạn cuối căn bệnh ung thư và mặc dù anh tỏ ra không thích đua chen trong các cuộc thi, tổng kết này nọ để được khen thưởng, nhưng với những cống hiến không nhỏ của Trần Bảo Định về văn hoá-văn nghệ trong hơn chục năm qua, nếu như có một tổ chức nào đó ở TP. HCM hay ở quê hương anh có hình thức ghi nhận, tôn vinh tương xứng cho Trần Bảo Định thì tôi tin chắc đó là một sự kiện văn hoá được đông đảo bạn đọc hoan ngênh.
Tôi nêu trường hợp nhà văn-không thẻ Trần Bảo Định với hy vọng là trong giai đoạn tới, Hội Nhà văn và nhất là các Chi hội ở các địa phương, bên cạnh việc quan tâm đến các cây bút trẻ, có lẽ cũng nên chú ý đến lớp người vừa có học vấn, vừa có vốn sống, bám trụ lâu dài ở một vùng đất và yêu thích văn học. Lớp người này, nếu được “kích hoạt”, tiếp sức, rất có thể trở thành một nhà văn lực lưỡng như TBĐ, đóng góp cho nền văn học những tác phẩm sâu sắc về các vùng đất giàu truyền thống lịch sử-văn hoá đang như những mỏ quý chưa được khai thác…
Trường An – Huế 12.9.2025
--------------
Bài viết được khai thác từ Tham luận tại Hội thảo tổng kết 50 năm văn học Việt Nam với chủ đề “Những vấn đề đặt ra và triển vọng phát triển văn học” ngày 26.9.2025 tại Đà Nẵng