Diễn đàn lý luận

100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/1925 – 21/6/2025): Một vài tờ báo văn học đã đi vào lịch sử

Lại Nguyên Ân
Lý luận phê bình 07:00 | 20/06/2025
Baovannghe.vn - Trong suốt 100 năm lịch sử của nền báo chí cách mạng Việt Nam, các tờ báo chuyên văn học nghệ thuật, cả ở quy mô phát hành toàn quốc lẫn phát hành địa phương, vùng miền, dù chiếm số lượng không nhiều nhưng cũng không hề ít.
aa

Nhân dịp kỷ niệm này, xin nhắc lại cùng bạn đọc gần xa một vài tờ trong số đó.

Tiên phong, cơ quan của Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam

100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/1925 – 21/6/2025): Một vài tờ báo văn học đã đi vào lịch sử
Ảnh tư liệu

Ngay sau khi công bố Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943), Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã vận động tổ chức Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam, đoàn thể của các nhà hoạt động văn hóa, thành viên của Mặt trận Việt Minh. Cùng với việc phát triển hội viên, ngay từ đầu hội đã chủ trương xuất bản một cơ quan ngôn luận. Cuộc họp của hội ngày 11/6/1945 đã bàn bạc và nhất trí ra một tờ báo với tên gọi: “Tiền tuyến, cơ quan vận động tân văn hóa”, mỗi số 24 trang 15x25cm. Nội dung bài vở số ra mắt đã hoàn thành ngay đầu năm 1945 để đưa in và phát hành bí mật. Liền đó Cách mạng tháng Tám thành công. Cuộc “khoáng đại hội nghị” của Hội Văn hóa cứu quốc tại Hà Nội ngày 5/9/1945 đã quyết định “Cho ra tờ tạp chí Tiên phong, cơ quan của Văn hóa cứu quốc trước đây vẫn viết và in trong bí mật”.

Tiên phong số 1 được coi là tái bản, ra ngày 10/11/1945.

Sau đó Tiên phong tồn tại ở dạng bán nguyệt san, ra vào các ngày 1 và 16 hàng tháng. Từ đầu tháng 12/1945 đến đầu tháng 12/1946, Tiên phong ra được 22 kỳ, tổng cộng là 24 số (có những số in gộp). Tòa soạn ban đầu đặt tại hội quán Hội Văn hóa cứu quốc, đóng ở nhà Khai Trí Tiến Đức cũ, bên bờ Hồ Gươm, Hà Nội; từ tháng 4/1946, hội quán Văn hóa cứu quốc và báo Tiên phong chuyển về 40 Quang Trung, Hà Nội. Bộ biên tập Tiên phong gồm 22 văn nghệ sĩ, nhà văn Nam Cao là thư ký tòa soạn đầu tiên, về sau là Xuân Diệu.

Là ấn phẩm văn nghệ, Tiên phong đăng khá nhiều truyện, ký của những cây bút hàng đầu như Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, các sáng tác thơ của Trần Huyền Trân, Văn Cao, Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương, Chế Lan Viên... Tất nhiên Tiên phong thuộc trong số ấn phẩm ngôn luận cách mạng mới ra công khai, cho nên phần bài vở chính luận vẫn chiếm số trang vượt trội. Ta gặp ở ngay các số đầu những bài Định nghĩa hai chữ văn hóa (Đặng Thai Mai & Nguyễn Hữu Đang), Xét qua văn hóa Việt Nam trong sáu năm chiến tranh 1939-1945 (Nguyễn Đình Thi), Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa Việt Nam mới lúc này (Trường Chinh)... Ngay số 2 đã đăng Một bức thư của Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam trao tận tay cho các nhà văn hóa Hoa Kỳ, trong thư có đoạn viết: “Hỡi các nhà văn hóa Hoa Kỳ, các bạn là những người phụng sự tự do, công lý, các bạn không thể không đứng về phía chúng tôi, dùng lời nói, dùng ngòi bút, dùng uy tín của các bạn để chống với áp bức và cường quyền. Chúng tôi kêu gọi các bạn ủng hộ cuộc chiến đấu sống còn của chúng tôi”.

Ở số cuối cùng, in ra và phát hành trong những ngày tại Hà Nội bùng nổ toàn quốc kháng chiến, Hội Văn hóa cứu quốc có “Lời hiệu triệu” kêu gọi văn nghệ sĩ trí thức “hãy liên lạc ngay với các cơ quan kháng chiến địa phương” để “đưa tài học của mình giúp công cuộc chống giặc”, “dùng tài nghệ của mình để kích thích tinh thần dân chúng và bộ đội, để tố cáo dã tâm của bọn xâm lăng”. “Sự hoạt động văn hóa trong lúc này phải hòa nhịp với bản anh hùng ca vĩ đại của dân tộc”.

Hiện tại, các số Tiên phong chưa được số hóa. Nhưng từ những năm 1990, nhà báo Hữu Nhuận đã đưa bộ sưu tập Tiên phong mà anh có, dù không đủ bộ, cho Phòng Biên tập Nhà xuất bản Hội Nhà văn chỗ tôi. Bọn tôi tiếp tục tìm kiếm trong thư viện quốc gia để có bản chụp các số còn thiếu, rồi tổ chức tái bản theo dạng gần như phục chế. Đó là 2 tập sách khổ rộng 19x27cm, mang tên Sưu tập trọn bộ TIÊN PHONG 1945-1946, 2 tập, Nxb. Hội Nhà văn, 1996-1997.

Văn nghệ, tờ tạp chí có tòa soạn ở “thủ đô gió ngàn”

100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/1925 – 21/6/2025): Một vài tờ báo văn học đã đi vào lịch sử
Ảnh tư liệu

Thời đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lược (1946-1954), chính phủ đã sơ tán lực lượng các tổ chức chính quyền, đoàn thể về các vùng nông thôn, rừng núi. Văn nghệ sĩ, trí thức từ Hà Nội và các đô thị tản cư về nhiều hướng: vào Khu 5, Khu 4, Khu 3, Liên khu Việt Bắc, v.v. Tại các “vùng kháng chiến” (đôi khi cũng gọi là “vùng Việt Minh”, “vùng tự do”...) dần dần hình thành một số trung tâm văn nghệ, có các hoạt động báo chí, xuất bản, hội họp; các cơ quan trung ương đều đóng tại Việt Bắc.

Mùa thu năm 1947, nhà thơ Tố Hữu đang là Bí thư Thanh Hóa, được Đảng điều động lên Việt Bắc, được Tổng Bí thư Trường Chinh giao nhiệm vụ phụ trách công tác văn nghệ cùng với Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi. Ngày 3/10/1947, ba nhà văn kể trên cùng một số văn nghệ sĩ họp tại Đại Từ (Thái Nguyên) bàn việc thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam và bầu ra một ban chấp hành lâm thời để xúc tiến công việc. Tạp chí Văn nghệ của Hội Văn nghệ Việt Nam ra mắt số đầu tiên tại Việt Bắc vào tháng 3/1948.

Theo hồi ức của một số văn nghệ sĩ trong cuộc, bài vở cho số tạp chí đầu tiên được viết và tập hợp từ cuối năm 1947. Tòa soạn và trị sự tạp chí Văn nghệ ban đầu cũng chính là cơ quan Hội, nguyên là cơ quan của Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam (1943-1948) và tòa soạn tạp chí Tiên phong (1945-1946) chuyển thành.

Do số đông thành viên được điều động đi nhiều công việc khác nhau, cho đến trước ngày 19/12/1946, tại cơ quan Hội (40 Quang Trung, Hà Nội) chỉ có Nguyễn Huy Tưởng, Thành Thế Vỹ và một số nhân viên, trong đó có ông Nguyễn Văn Mãi. Bộ phận này được lệnh chuyển về làng Phụ Chính huyện Thanh Oai tỉnh Hà Đông, đóng ở Ngã ba Thá bên sông Đáy. Giữa năm 1947, cơ quan này được lệnh chuyển lên Tuyên Quang, Bắc Kạn; sau đó lại chạy sang Bắc Giang để tránh cuộc tấn công của quân Pháp lên Việt Bắc; sau cùng, trở lại đóng cơ quan Hội và tòa soạn Văn nghệ tại xóm Chòi xã Yên Mỹ huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên.

Văn nghệ ban đầu xuất bản ở dạng tạp chí, khổ 16x24cm, ra hàng tháng; Thư ký tòa soạn là Tố Hữu; bộ biên tập đứng tên 4 người: Đặng Thai Mai, Thế Lữ, Văn Cao, Nguyên Hồng; với một danh mục cộng tác viên gồm 20 người: Tô Ngọc Vân, Ngô Tất Tố, Nguyễn Đình Thi, Nam Cao, Kim Lân, Hoài Thanh, Trần Văn Cẩn, Huy Cận, Nguyễn Hữu Đang, Trần Huyền Trân, Như Phong, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Xuân Diệu, Thép Mới, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Tư Nghiêm, Xuân Thủy, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Huy Tưởng. Trên thực tế, người phụ trách tòa soạn ban đầu là Nguyễn Huy Tưởng, sang những năm 1950 là Xuân Diệu.

Năm 1948 Văn nghệ ra được 7 kỳ (7 số), từ tháng 3/1948 đến tháng 12/1948.

Năm 1949 Văn nghệ ra được 7 kỳ (10 số), trong đó 3 kỳ là những số kép: tháng 5/1949 (số 11&12, “Văn nghệ bộ đội”); tháng 9 (số 15&16: số Hà Nội); tháng 11&12/1949 (số 17&18: số tranh luận).

Năm 1950 ra được 8 kỳ (10 số) trong đó 2 kỳ là những số kép: tháng 2&3/1950 (số 20&21: số Xuân); tháng 11&12/1950 (số 27&28: Chiến thắng Cao - Lạng).

Năm 1951, sau 8 tháng ngừng (không xuất bản), Văn nghệ đổi thể tài, từ tạp chí sang báo, dự định ra 2 kỳ/tháng (bán nguyệt san), ra được 5 số: 3 số theo khổ báo 24x32cm (số 29, ngày 15/8/1951, đến số 31, ngày 1/10/1951); 2 số sau trở lại khổ tạp chí 18x24cm (số 32, ngày 25/10/1951 đến số 34, ngày 15/12/1951).

Năm 1952 ra được 4 số: từ số 35 (tháng 4/1952) đến số 38 (tháng 12/1952).

Năm 1953 ra được 8 số: từ số 39 (tháng 2/1953) đến số 46 (tháng 12/1953).

Năm 1954 ra được 10 số, trước khi tòa soạn chuyển về Hà Nội, từ số 47 (tháng 1/1954) đến số 56 (tháng 10/1954).

Văn nghệ thời kỳ 1948-1954 đã phản ánh được những sự kiện lớn của đời sống văn nghệ Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp, như:

– Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai và việc thành lập Hội Văn hóa Việt Nam (16 - 20/7/1948);

– Đại hội văn nghệ toàn quốc thứ nhất, thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam (23 - 25/7/1948);

– Hội nghị văn nghệ bộ đội (9 - 14/4/1949);

– Hội nghị tranh luận văn nghệ Việt Bắc (25 - 28/9/1949);

– Hội nghị tranh luận sân khấu (20 - 22/3/1950);

–Triển lãm hội họa 1951 và Hội nghị tranh luận hội họa (19 - 25/12/1951);

– Giải thưởng văn nghệ Việt Nam 1951-1952 (tháng 1/1953);

– Đại hội văn công toàn quốc (15 - 20/1/1955).

Văn nghệ thời kỳ 1948-1954 đã đăng tải những thiên chính luận, tiểu luận văn nghệ quan trọng như: Nhận đường (Nguyễn Đình Thi, s. 1), Vẫn tranh tuyên truyền và hội họa (Tô Ngọc Vân, s. 2), Kháng chiến và văn hóa (Đặng Thai Mai, s. 3), Một giai đoạn mới trong văn chương kháng chiến (Hoài Thanh, s. 5), Mấy vấn đề thắc mắc văn nghệ (Trường Chinh, s. 6), Tìm nghĩa hiện thực mới (Nguyễn Đình Thi, s. 10)...

Văn nghệ thời kỳ 1948-1954 là nơi đăng tải lần đầu những bài thơ sẽ trở nên nổi tiếng như: Ngoại ô mùa đông 1946 (Văn Cao, s. 2), Nhớ máu (Trần Mai Ninh, s. 2), Viếng bạn (Hoàng Lộc, s. 8&9), Đêm sầu Hà Nội (Chính Hữu, s. 11&12), Nhớ Tây Tiến (Quang Dũng, s. 11&12), Hoan hô chiến sĩ Điện Biên (Tố Hữu, s. 52), Ta đi tới (Tố Hữu, s. 56)...

Văn nghệ thời kỳ 1948-1954 là nơi xuất hiện lần đầu của những truyện ngắn xuất sắc như: Làng (Kim Lân, s. 1), Đôi mắt (Nam Cao, s. 2), Thư nhà (Hồ Phương, s. 15&16), v.v.

Văn nghệ thời kỳ 1948-1954 là nơi đăng tải lần đầu loạt “tùy bút kháng chiến” của Nguyễn Tuân, và những bút ký, ký sự xuất sắc như: Trận phố Ràng (Trần Đăng, s. 14), Vượt Tây Côn Lĩnh (Tô Hoài, s. 14), Một cuộc chuẩn bị (Trần Đăng, s. 25), v.v.

Các số tạp chí Văn nghệ thời kỳ 1948-1954, ngày nay là loại ấn phẩm hiếm, ngay tại các thư viện lớn. Nhận thấy tình trạng ấy, từ những năm 1990, phòng sách nghiên cứu phê bình của nhà xuất bản Hội Nhà Văn chúng tôi đã tiến hành tái bản bằng cách in tạp chí Văn nghệ thời kỳ này thành bộ sưu tập gồm 7 tập. Bạn đọc, bạn văn quan tâm thời kỳ văn nghệ kháng chiến chín năm có thể tìm đọc bộ sưu tập kể trên.

Văn, tờ tuần báo có số phận trắc trở

100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/1925 – 21/6/2025): Một vài tờ báo văn học đã đi vào lịch sử
Ảnh tư liệu

Trong số các tờ báo văn chương chính thống ở ta, có lẽ tuần báo Văn (1957-1958) là tờ có số phận đen đủi nhất.

Người ta biết, ở miền Bắc, sau hòa bình lập lại (cuối năm 1954), các hội văn nghệ từ các vùng tản cư trở về Hà Nội; văn nghệ sĩ miền Nam sông Bến Hải cũng tập kết ra Bắc. Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai được triệu tập (đầu năm 1957); đại hội này đã quyết định chấm dứt Hội Văn nghệ Việt Nam để thành lập Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam, khuyến khích các ngành văn nghệ (Văn, Họa, Nhạc, Sân khấu, Điện ảnh, Nhiếp ảnh…) thành lập Hội của ngành mình, đặt trong khuôn khổ Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam.

Những người hoạt động văn học đã họp Hội nghị thành lập Hội nhà văn Việt Nam (1 - 4/4/1957) bầu ra Ban chấp hành gồm 25 người (Nông Quốc Chấn, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Đình Thi, Tú Mỡ, Anh Thơ, Mộng Sơn, Cầm Biêu, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Huy Tưởng, Hoàng Cầm, Sao Mai, Tố Hữu, Hoàng Tích Linh, Nguyên Hồng, Bửu Tiến, Xuân Diệu, Đoàn Giỏi, Phạm Huy Thông, Tế Hanh, Nam Trân, Vũ Tú Nam, Hoàng Trung Thông, Xuân Miễn, Tô Hoài, Nguyễn Tuân). Ban chấp hành đã cử Ban thường vụ: Chủ tịch: Nguyễn Công Hoan; Phó chủ tịch: Tú Mỡ. Tổng thư ký: Tô Hoài; Phó tổng thư ký: Nguyễn Xuân Sanh; các ủy viên: Nguyên Hồng, Tế Hanh, Đoàn Giỏi. Ban chấp hành cũng quyết định xuất bản tuần báo Văn và lập nhà xuất bản Hội Nhà văn.

Tuần báo Văn, Chủ nhiệm Nguyễn Công Hoan, Thư ký tòa soạn Nguyên Hồng; các ủy viên biên tập: Tú Mỡ, Tế Hanh; tòa soạn 51 Trần Hưng Đạo, Hà Nội; mỗi số gồm 8 trang khổ 38x42cm. Số 1 ra ngày thứ sáu, 10/5/1957; số cuối cùng: số 37 (17/1/1958).

Vì sao tờ báo đầu tiên của Hội nhà văn lại tồn tại ngắn ngủi thế? Xin trả lời: đây là sự thực của lịch sử báo chí, người làm văn học sử hay báo chí sử đều không thể nói khác!

Số là tuần báo Văn ra mắt được mươi số thì nổi lên một luồng dư luận chính thống cho rằng những sáng tác đăng trên tờ này không thể hiện được “con người thời đại”, ý nói “con người xã hội chủ nghĩa”, và nêu tên phê phán một loạt tác phẩm đã đăng trên 10 số đầu, từ các bút ký như Phở (Nguyễn Tuân), Xiếc khỉ (Quang Dũng), các truyện ngắn Nhật ký người mẹ (Lê Minh), Bóng tối (Nguyễn Châu Viên), Căn nhà hạnh phúc (Nguyễn Hồng Điện), Bích-xu-ra (Thụy An), đến các bài thơ: Gió (Xuân Diệu), Yêu nhau (Lê Đạt)... Người ta kết luận rằng, tuần báo Văn hầu như xa rời thực tế, xa rời cuộc sống, tách rời những nhiệm vụ trung tâm của cách mạng!

Những lời phê bình nặng nề này khiến cho cả những nhà văn đang làm việc tại tòa soạn lẫn những cây bút cộng tác với tuần báo Văn đều bất bình. Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Lê Minh, Nguyễn Văn Bổng, Tế Hanh và một số nhà văn khác đã lên tiếng đáp trả. Thế nhưng những phản ứng như thế lại chỉ khiến dư luận chính thống “dậy sóng”! Tuần báo Văn sau số 37 bị ngừng lại vĩnh viễn.

Đến 25/5/1958, cũng tại 51 Trần Hưng Đạo, Hà Nội, báo Văn học ra đời với khẩu hiệu “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội” gắn cùng tên báo. Đây cũng là tờ báo của Hội Nhà văn Việt Nam, do Nguyễn Đình Thi là Thư ký tòa soạn, nhưng ngay từ đầu Văn học đã nói rõ nó không phải là sự tiếp tục tuần báo Văn. Từ đó trở đi, ký ức về tuần báo Văn phai mờ dần trong giới cầm bút. Tất nhiên đây là tờ tuần báo của những nhà văn nhà báo đang bước vào thời của văn chương minh họa nên nó mới chỉ làm tròn bổn phận này ở các bài mục “đánh địch” tức châm biếm, đả kích; còn lại, ở các phương diện khác, những người sáng tác vẫn chưa quên những chuẩn mực văn chương nhân bản thông thường, tuy rằng viết ra được tác phẩm hay bao giờ cũng là việc khó nhất. Trong số những tác phẩm đăng lần đầu ở đây, được nhắc nhở sau này là các tác phẩm như thơ: Hãy đi mãi (Trần Dần), Lời mẹ dặn (Phùng Quán), Bão (Tế Hanh), văn: Đống máy (Minh Hoàng), Ông Năm Chuột (Phan Khôi), Tiếng bạc cuối cùng (Hồ Dzếnh), là truyện dịch Phòng số 6 của Chekhov, là các tiểu luận Nguyễn Tuân viết về văn Thạch Lam, kịch Vi Huyền Đắc, hoặc, một số tranh trào lộng về tệ quan liêu của Trần Duy…

Hiện nay, sưu tập 37 số báo Văn đã là tương đối hiếm, ngay ở các thư viện lớn.

Thanh xuân của ngoại

Thanh xuân của ngoại

Baovannghe.vn - Ngoại hay bảo mình chẳng có thanh xuân. Bởi suốt cả thời tuổi trẻ mòn mỏi chạy giặc, nuôi con, khi tấm ảnh thờ chồng là tấm bằng Tổ quốc ghi công, ngoại chưa từng có khắc nào sống cho riêng mình.
Hi sinh ở mặt trận phía Nam. Bút ký của Nguyễn Ngọc Lợi

Hi sinh ở mặt trận phía Nam. Bút ký của Nguyễn Ngọc Lợi

Baovannghe.vn- “…Hi sinh ngày 18 tháng 11 năm 1972 tại mặt trận phía Nam” - Đó là mấy lời ghi trong giấy báo tử cậu em vợ tôi. Liệt sĩ Vũ Bá Tốp, nhập ngũ tháng 1 năm 1972. Lần nào đọc lại dòng chữ này lòng tôi cũng bứt dứt không yên.
Khai mạc trưng bày "Ký ức thời hoa lửa" tại Huế

Khai mạc trưng bày "Ký ức thời hoa lửa" tại Huế

Baovannghe.vn - Ngày 25/7, Bảo tàng Lịch sử thành phố Huế đã khai mạc trưng bày chuyên đề Ký ức thời hoa lửa tại Khu di tích lịch sử Chín Hầm. Trưng bày chuyên đề giới thiệu gần 120 hình ảnh, tư liệu và hiện vật tiêu biểu.
Góc nhìn mới về  “Mùa thu độc lập và Khát vọng phồn vinh”

Góc nhìn mới về “Mùa thu độc lập và Khát vọng phồn vinh”

Baovannghe.vn - Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Trịnh Thị Thuỷ đã ký Quyết định số 2568/QĐ-BVHTTDL ban hành Kế hoạch tổ chức Triển lãm tư liệu Kỷ niệm 80 năm Ngày Cách mạng tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2025) với chủ đề “Mùa thu độc lập và Khát vọng phồn vinh”.
Đào tạo nguồn nhân lực phê bình nghệ thuật số

Đào tạo nguồn nhân lực phê bình nghệ thuật số

Baovannghe.vn - Phê bình nghệ thuật số có thể được hiểu là việc đánh giá, phân tích và bình luận về các tác phẩm nghệ thuật được tạo ra hoặc lan truyền trên môi trường kỹ thuật số, bao gồm việc xem xét các khía cạnh như tính sáng tạo, kỹ thuật, ảnh hưởng văn hóa và ý nghĩa xã hội của nghệ thuật số