“50 năm” (1975 - 2025) là tính về thời gian; “văn học Đà Nẵng” là giới hạn “vùng văn học” về tác giả và tác phẩm, cho sự ra đời và tồn tại, quá trình sáng tạo và tiếp nhận văn chương. Đường viền này có tính tương đối với mục đích là để tập trung hơn vào nội hàm, tránh sa vào ngoại diên tương tự như hai khái niệm của logic học. Khi đi sâu vào hai tác giả Đông Trình và Tần Hoài Dạ Vũ, 50 năm mới là một nửa của nghiệp viết. Đà Nẵng là miền đất sống, sinh hoạt thường xuyên hơn nhưng hoạt động và sáng tác của hai tác giả - đặc biệt là ngọn nguồn cảm hứng - thì biên độ đó phải rộng lớn hơn nhiều.
Đông Trình 1 và Tần Hoài Dạ Vũ 2 trước năm 1975 gần như cùng thế hệ, có điểm chung với nhiều nhà văn - trí thức miền Nam trước biến động thời cuộc từ nửa cuối thế kỷ XX sang hơn hai thập niên đầu thế kỷ XXI. Hai ông đều học hành và dạy học văn chương; cả hai bộc lộ năng khiếu sáng tác rất sớm, cùng tham gia hoạt động trong phong trào phản chiến và sáng tác thơ ca với tinh thần phản kháng, tìm về cội nguồn dân tộc ở đô thị miền Nam; sáng tác của hai ông có vị trí và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc miền Trung và miền Nam hơn ba thập niên của thế kỷ trước 3 và cả về sau này.
|
Từ năm 1975, Đông Trình và Tần Hoài Dạ Vũ, với nhiều cây bút cùng thế hệ, bước vào một giai đoạn mới với những đổi thay lớn về tư tưởng và quan niệm văn chương, cuộc sống và công việc, với trăn trở mới của nghệ sĩ trong ngày Nam Bắc một nhà. Có vẻ như họ đang lặp lại ở mức độ nào đó của nghệ sĩ Nhận đường từng được nhà văn Nguyễn Đình Thi viết vào cuối năm 1947: …bao nhiêu là bỡ ngỡ, dằn vặt, khó khăn giống như một cuộc lột vỏ da non mới mọc chưa lành, một cái gì chạm phải cũng nhỏ máu. Từ thời điểm 1975 (và còn kéo dài nhiều năm sau nữa), sáng tác văn học vẫn là sáng tác cách mạng, nhà văn vẫn giữ vị trí chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, công nông binh vẫn là hình tượng trung tâm tác phẩm. “Tuyên ngôn Nhóm Việt”4 năm 1968 - “Có người quan niệm tác phẩm văn nghệ phải lướt qua thời đại tác giả để tác phẩm trở nên muôn thuở và của nhân loại. Nhưng chúng tôi không thể nào hiểu được trong thứ tác phẩm ấy lại thiếu vắng hôm nay của dân tộc. Có người quan niệm tác phẩm văn nghệ phải nhằm vào thực tại xã hội để tác phẩm không nằm ngoài lịch sử đấu tranh của dân tộc. Nhưng chúng tôi cũng không thể hiểu được có thứ tác phẩm nào đã bắt rễ vào môi trường sinh hoạt hôm nay mà không lớn mạnh và tồn tại trong tương lai.” - như rất gần và rất dễ để hai nhà văn tiếp tục nhập cuộc. Nhưng thực ra, chuyện trở nên không đơn giản cho cả hai, lúc họ vào độ chín của tài năng và đang đứng trước sự chọn lựa mới. Lối rẽ của Đông Trình và Tần Hoài Dạ Vũ, cũng bắt đầu từ thời điểm lịch sử đó, cả trong cách sống và phong cách thơ ca.
Sau năm 1975, về thơ, Đông Trình bắt nhịp ngay với cuộc sống mới qua Phần II tập thơ Tên gọi mới của hạnh phúc (Hội Văn học nghệ thuật Quảng Nam - Đà Nẵng, 1982) và Từ chiếc tao đời mẹ ru (Trường ca, NXB Đà Nẵng, 1986). Cả hai tập được viết ra trong 8 năm; sức viết khỏe, tiếp cận nhanh đề tài, chữ nghĩa vẫn giữ được sự tinh tế trong cảm xúc và cách nhìn. Nhưng nếu đọc kỹ thì không thấy lại đầy đủ một phong cách Đông Trình như ta từng mến mộ dù ông khá dụng công trên ngàn câu thơ lục bát viết về mẹ hay hình tượng Hạt lúa biết đốt vỏ mình cho hạt gạo thành cơm (Bếp lửa).
Phải đợi đến Lấm tấm hạt đau (NXB Hội Nhà văn 1990), khi sự hồ hởi qua đi, nỗi đau dần thấm tháp (vốn là cơn cớ căn bản của thơ ca muôn thuở) thì hình tượng Mẹ và Lửa5 mới thực sự ghi dấu ấn Đông Trình của một giai đoạn phát triển mới: Ở đây trầu không phải để ăn mà để têm/…/ Nhìn các mẹ têm trầu ta mới thấy/ Mắt xa xăm và tay xếp lá thời gian.... Trong bài thơ Với một nhà văn - đề từ Nhớ Nguyễn Minh Châu6- tháng 6/1990, Đông Trình một lần nữa ý thức thiên chức thơ ca và sự chuyển biến thơ ca của ông: Tôi nhỏ nhoi mái hiên nhà giọt giọt/ Anh bão bùng từ tâm bão đi ra/ Trên cánh đồng thơ tôi người đi mót/ Bỗng gặp hạt anh máu quánh phù sa. Cũng vào năm 1990, trong tập thơ này, bài thơ Nếu tôi làm ra nước mắt của Đông Trình uyên áo, triết luận và hình tượng lung linh với thể thơ 6 chữ cổ kính mà hiện đại cấu tứ. Ông mô tả “màu” của nước mắt rất lạ: Nước mắt có màu huyết dụ/ Điệp với lá cờ đang bay. Đâu chỉ là máu đỏ của nhiệt huyết, của chiến công mà đó còn là máu bầm đen oan khuất của điệp trùng thập loại chúng sinh!... Khổ thơ kết lại trong ngần và đẹp như nước mắt: Cho những bảo tàng ngày sau/ Không chỉ trưng bày vũ khí/ Cho những đời người nối nhau/ Biết soi mình vào hạt lệ. Ở bài thơ này, “nước mắt” đã làm phận sự hai lần soi chiếu: nỗi đau và vinh danh nỗi đau con người.
Ba năm sau, tháng 9/1993, Rừng và Hoa (NXB Đà Nẵng) được tác giả tập hợp 40 bài sáng tác trước năm 1975, gồm hai phần thơ Khi mùa mưa bắt đầu và Lót ổ cho đại bác viết trong các năm 1965 - 1968. Đây được coi là phần thơ tiêu biểu của phong cách thơ Đông Trình trước 1975. Việc tuyển thơ trước đó không chỉ là lưu giữ, nhắc nhớ, mà còn là sự nối lại, khẳng định lại con đường thơ đã đi và “tuyên ngôn thơ” đã chọn sau bao lần Hoài công viết vạn câu thừa (Một câu - Lấm tấm hạt đau). Rừng và Hoa để lại những bài thơ đáng nhớ với tâm trạng và tài hoa Đông Trình trong những năm tháng đặc biệt của thế hệ ông, trong đó, nhiều bài hôm nay càng đọc càng rung động như: Với bạn bè ở miền núi, Vô cùng linh thiêng như nghe theo tiếng gọi, Trong tình đầy thanh tâm, Tình về,... Đặc biệt là bài thơ Chúc phúc cho một ông già cô độc:
|
Một ông già đi về phía bờ sông
Gõ ống vố vào chân cầu
Tàn thuốc rơi xuống
làm cay mắt những con cá
Ông già đi về phía khu rừng
Gõ ống vố vào thân cây
Tàn thuốc bay lên
làm cay mắt những chiếc lá
Ông già đi về phía mặt trận
Gõ ống vố vào những sọ người
Tàn thuốc sợ hãi nằm im
Ông già nhồi niềm sợ hãi vào ống vố
Thản nhiên đứng hút.
Bài thơ bắt đầu một chuyện kể, kể về cuộc đi, kể về nỗi cô độc. Rồi không đi nữa mà len qua cõi chết, khuất phục mọi sợ hãi… Ở đây, “vật thể” hiện ra trong hình ảnh đã biến thành “phi thực”, nghĩa là đã hóa thành một “vật thể tượng trưng”. Tác giả đua một mình với chính mình và không có đích cuối. Bài thơ ghi dấu ấn của thể thơ tự do - văn xuôi, và có thể nói, là một trong những bài thơ hay nhất của Đông Trình và là bài thơ hay của thơ ca Việt Nam đương đại.
Năm 1996, Đông Trình tiếp tục ra mắt Mất và tìm (NXB Đà Nẵng). Tập thơ này khẳng định một lần nữa phong cách thơ Đông Trình trong giai đoạn thứ hai. Về hình thức thơ, lục bát chất chứa và mới mẻ, thể tự do có cấu trúc lạ, hình tượng đa nghĩa, giọng điệu uyển chuyển, từ ngữ cân nhắc và xác quyết; về nội dung, thơ là tiếng nói chiêm nghiệm giữa ồn ào trớ trêu đời sống, mang thông điệp của nỗi đau và những bất định đời người,… Đó là thơ tư tưởng, thơ triết lý nhưng vẫn bay trên đôi cánh ngôn ngữ của riêng Đông Trình - một ưu thế mà bạn đọc rất dễ nhận ra so với tác giả cùng thời. Rất khó xao lãng khi tiếp nhận các bài: Chiều thứ bảy của một người đàn bà, Trả, Mất và tìm, Tiếng còi tàu, Ở đâu ngoài cát bụi, Gánh, Tàu chợ,… Sẽ nhận ra ông trăn trở về tồn tại của thơ (mình) qua bài Định kiến: Sự hy sinh cao cả của chữ/ Làm cho cuộc đời luôn mới mẻ/ Những con sông/ Chẳng bao giờ chảy lại/ Những gì mình đã trôi đi... Nhà thơ đi tìm cái quy luật Ngoài quy luật của thơ và niềm đau lớn: Dù sâu đến thế nào/ Mọi vết thương/ Có một ngày kín miệng/ Nhai quy luật này/ Anh đắp vào chỗ trái tim/ Khốn khổ trái tim anh/ Không nằm trong quy luật/ Cây bị đốn - Đâm chồi/ Nỗi đau tầm gởi/ Mọc lên!... “Nỗi đau tầm gởi”, “Bởi tôi chưa sống hết mình nỗi đau”… là tự phát hiện của Đông Trình trong thơ.
Trong 12 tác phẩm thơ của Đông Trình đã xuất bản, có 3 tập thơ thiếu nhi: Những chiếc xe màu lửa (NXB Đà Nẵng, 1992); Nếm mật (NXB Đà Nẵng, 1995); Giữa thực và mơ (NXB Đà Nẵng, 2009). Thơ thiếu nhi của ông được sáng tác từ sau năm 1975, vào giai đoạn thứ hai của sự nghiệp sáng tác, nên cũng nhất quán với các tập thơ vừa nói trên; dù thơ thiếu nhi nhưng chất suy tư vẫn chớm lên từ tâm hồn con trẻ - tâm hồn những đứa trẻ không ngây ngô, hồn nhiên mà đang lớn khôn bất ngờ trước những dời đổi thế cuộc. Không chỉ dừng lại ở sự “vượt khung” đó, ông còn táo bạo “hiện nguyên hình” là một Đông Trình luôn thao thức với thời cuộc, khắc khoải với con đường, với đích đến và sứ mệnh thơ ca. Bài thơ Bóc (Nếm mật, 1995) là một ví dụ: Mỗi ngày Bố bóc một tờ/ Vò viên rồi ném hững hờ ra sân/…/ Bóc quả quít, gỡ múi ăn/ Bóc lá sen, bánh cốm dần tỏa hương/ Chỉ riêng tấm lịch treo tường/ Ngày nào cũng bóc mà không thấy gì!... Hoặc trong bài Cái bố đi tìm: Đêm đêm giấy trắng, đèn vàng/ Bố cầm cây bút... bảo: đang đi tìm!/ Đi tìm mà chẳng đứng lên/ Hỏi ra, Bố chẳng biết tên cái tìm!... Ông gửi cả vào trang viết thiếu nhi cuộc kiếm tìm vô định trên “con đường đau khổ” của sáng tạo thi ca7. Điều này rất hiếm thấy ở những nhà thơ viết cho thiếu nhi trước đó. Rõ ràng, Đông Trình vẫn ẩn mình vào hình tượng ngôn ngữ để tạo nên đặc điểm không lẫn vào ai khác. Nhận xét “Không thể đọc anh một cách bình yên được”!... của nhà thơ Thanh Quế là rất xác đáng.
Thơ Đông Trình có thế mạnh ở cấu trúc, ngôn ngữ, thi ảnh và cả nhạc tính nhưng đặc sắc hơn là cách kết thúc bài thơ luôn vượt khỏi dự cảm người đọc. Những bài thơ viết ở hai thập niên đầu thế kỉ XXI, sau bao nhiêu dằn xóc đời mình giữa thời cuộc đổi thay, ông một lần nữa “vặn mình” để sống, để yêu và để đi tìm. Nhiều lúc Ông tự tách mình ra khỏi hiện hữu, lao vào một “thế giới siêu thực” để không chấp nhận lỗi thời. Trên đường Khất thực thơ, ông “tự bạch”: Tôi là người hành khất đầy châu báu chứ không thể chỉ là kẻ quy y nỗi buồn/ Mở nắp bình bát vô hồn/ Chôn chân đứng với cô đơn nẻo người. Thơ giai đoạn sau đã đánh thức “lịch sử tâm hồn” với những vết cứa rỉ máu trái tim thi sĩ - điều khác biệt giữa ông và những người làm thơ cùng thế hệ. Nhà thơ Trinh Đường đã viết về Đông Trình: “Nhà thơ là một cuộc hóa thân thành nhiều hình thái bằng lửa khác nhau”. Phải chăng, một lần nữa, ta được trông thấy một Đông Trình dấn thân?!... Cuộc dấn thân này mới là câu chuyện đáng kể về sau đối với tư - cách - thơ - Đông - Trình.
Khi viết về khát vọng, niềm tin, ý chí đấu tranh hay chiêm nghiệm đều là sự biểu hiện đến cùng của một cá tính và phong cách thơ Đông Trình. Trong hơn 60 năm, dù viết theo sự réo gọi của mộng mơ hay tiếng gọi đấu tranh lý tưởng, những lúc làm thơ hào hứng nhất thời Những gì ta tưởng tượng hay khi viết với Nỗi đau trong tâm tưởng8 thì Đông Trình trước sau vẫn hiện ra trên trang giấy là một người viết chân thật (khác với sự thật) viết cho bạn đọc thật sự tự do. Cho nên, “Ông không phải là người viết của những ràng buộc thời thế như ta đã tưởng mà chính là nghệ sĩ ca hát có lúc khản giọng vì tự do cho ngòi bút và cho con người”9.
Tần Hoài Dạ Vũ trước năm 1975, về thơ, có nhiều nét giống Đông Trình và những người cùng thế hệ, cùng mang tinh thần dân tộc, tranh đấu. Trần Duy Phiên nói về “hành trình tư tưởng” của Tần Hoài Dạ Vũ - điều tác động trực tiếp đến thơ ông những năm tháng ấy: “Chẳng bao lâu, anh bừng tỉnh, những hiện thực làm cay lòng mắt và nhói tận tâm can. Hình như số phận đã đưa anh đến với vùng đất luôn luôn hòa nhịp với những nỗi thăng trầm của lịch sử dân tộc.”10. Tuy nhiên ở cả hai chặng đường, giữa thơ Đông Trình và Tần Hoài Dạ Vũ lại có những khoảng cách và khác biệt căn bản.
Trước năm 1975, bên cạnh thơ phản chiến (Ca khúc của người hai mươi tuổi, tạp chí Bách Khoa, 1964; Di ngôn, tạp chí Văn, 1965; Tháng hai ở Huế, 1966; Chiều mưa uống rượu, tạp chí Văn, 1969; Nằm bệnh nửa đêm dậy uống rượu, tạp chí Văn, 1971, Dòng chữ máu rưng rưng, tạp chí Đối Diện,1971…) và bài thơ đầy phấn khích chân thành trong ngày “Toàn thắng về ta11” - Mưa giải phóng12, Tần Hoài Dạ Vũ đã sớm viết những bài thơ về nỗi buồn thế hệ, về tình yêu tan vỡ. Đó là chỗ ông khác với Đông Trình - người không hoặc hiếm có thơ tình, hoặc nếu có viết về tình yêu thì cũng để nói một vấn đề khác - cả trước và sau 1975. Sau Ngày Giải phóng, cái “mầm” buồn đau khởi sự từ thời trai trẻ có lý do để ngủ vùi mười năm13, cả dòng thơ sục sôi nhiệt huyết ngày nào cũng không thấy nữa. Trong thời gian đó, Đông Trình nhập cuộc nhanh chóng hơn. Để rồi bỗng dưng, đến thời điểm òa vỡ cảm xúc, nhất là cảm hứng bị dồn nén và điều kiện thuận lợi, gần cả chục tập thơ của Tần Hoài Dạ Vũ ra đời trong khoảng 30 năm mà tập nào cũng có thể gọi là “thơ tình”14. Và cùng thời gian này, thơ Đông Trình của giai đoạn mới cũng phát lộ rực rỡ.
Vậy Tần Hoài Dạ Vũ đã nối chuyến tàu sáng tạo, đã chuyên chở những gì và có đến được ga cuối trong cuộc truy tìm bản thể thơ ca chính ông? Năm 18 tuổi, trong Ca khúc của người hai mươi tuổi, ông viết: Dầu nhỏ bé - xác thân này dâng hiến/ Để bàn tay dài nối những bàn tay/ Nếu nằm xuống - vườn thanh bình chưa đến/ Vòng hoa cười cũng rực ánh sao bay. Năm 19 tuổi, ở bài Di ngôn, ông dặn dò: Xin em hãy liệm anh bằng tiếng hát/ đắp mặt anh bằng mái tóc em buồn/ cho anh quên những xác người tan nát/ những kẽm gai còn rào kín tâm hồn/ Em có nhớ, thắp hương bằng nước mắt/ ngọt vô cùng anh sẽ uống no say/ để anh quên chuyện trần gian đói khát/ chén cơm đen muối mặn nuốt qua ngày/ Và em hãy viết thư bằng cổ tích/ đừng nhắc chuyện quê hương chinh chiến hận thù/ anh sẽ tưởng hồn anh không xiềng xích/ bay tìm em dù gió cát, sương mù/ Anh sẽ dựng nhà với chân tay làm cột/ giăng mùng cỏ xanh ngồi đợi em về/ hai chúng mình sẽ bắt đầu hạnh phúc/ tủi nhục này rồi con cháu quên đi!... Hai bài thơ đầu đời này cũng được xếp vào dòng thơ phản chiến nhưng bản thân nó đã xuất hiện sự khởi đầu của “cuộc đuổi bắt” vừa nói trên. Nhân vật trữ tình quên những xác người tan nát, những kẽm gai còn rào kín tâm hồn, quên chuyện trần gian đói khát, đừng nhắc chuyện quê hương chinh chiến hận thù và tủi nhục này rồi con cháu quên đi…; nghĩa là, không phải quên, không phải xóa đi mà thực chất là khắc ghi, là hướng đến, là nỗ lực tiệm cận một giá trị nhân loại phổ quát. Trong Chiều mưa uống rượu, viết bốn năm sau đó, Tần Hoài Dạ Vũ có những thi ảnh quen mà lạ (của thời điểm ấy), cứ như là buông thả tơi bời, phó mặc vô định: Tâm sự cứ như là áo rách/ từng chiều chếnh choáng bước loanh quanh/ hồn thôi bỏ mặc cho sương xuống/ thương nhớ không vàng giọt nắng hanh. Hai khổ cuối mơ hồ, thoáng thấy cái không còn không thể, điều đang vơi dần cạn kiệt và sự cởi bỏ:
Sao tôi cứ là mây viễn xứ
Thèm về soi giữa mắt nhung xưa
Mà không là một vầng trăng tỏ
Nở giữa lòng em cả bốn mùa?
Mưa rụng thêm hồn tôi nữa đây
Chiều tàn. Rượu hết. Sầu chưa say
Mai về tay níu vai cầu cũ
Cởi áo xưa buồn cho gió bay.
Tần Hoài Dạ Vũ từng nhận thức: “Ở tuổi thanh xuân, tôi đã từng nghĩ, thơ trước hết phải thực hiện trách nhiệm công dân. Bước vào tuổi 30, tôi quan niệm thơ là sự truy tìm bản thể. Xin đừng nghĩ đó là sự mâu thuẫn, vì khi dấn thân vì trách nhiệm công dân, thơ cũng đã thể hiện nỗi thao thức đi tìm bản thể. Cũng vậy, lúc thơ hiến mình cho tình yêu cũng chính là khi nhà thơ muốn đi tìm sự hiện hữu của mình trong cuộc đời này.”15. Như bao thi sĩ khác, nỗi buồn thường xâm chiếm các trang thơ và họ khác nhau không phải ở sự trình hiện những nỗi buồn mà chính là ở sự biểu đạt thông điệp hình tượng. Dạ khúc của một người hay buồn (1988) chuyên chở nỗi đau trên đôi cánh thời gian và trong không gian sâu rộng: Năm tháng gió. Và vách đời mưa tạt/ Bước chân vui dẫm lên thời mất mát/ Cơn buồn dài cứ đi hết chiều sâu. Cái “thời mất mát” là thời của chính ông, của sự tự rạn vỡ trong ông mà nhiều khi không hẳn là do những biến cố bên ngoài tác động. Cuộc truy tìm nào trong thơ mà không liên lụy từ chính khát vọng vượt quá giới hạn truy tìm: Muốn gắn bó cuộc đời với những xa khơi/ Anh lại thường bỏ quên lòng mình sau cánh cửa/ Có yếm mẹ đâu cho anh về dựa/ Còn tay em ai dắt tự bao giờ... Để rồi chấp nhận và mong muốn được chấp nhận cái giá của trả vay: Nhắc lại lời xưa chăng: - Xin bảy lượt đầu thai/ Để được bảy lần hiến dâng trái tim nồng cháy!/ Kỷ niệm ngủ quên rồi, có ai về thức dậy (?)/ Tiếng chuông chùa rơi ngoài cõi buồn riêng!
Từ thơ cổ điển đến thơ hậu hiện đại, quê hương luôn là một hình tượng, một thi liệu để thi sĩ biểu lộ khát vọng. Lục bát Đò chiều viết ngay trên quê nhà - ghi cả lúc nhân hứng: “Bến đò Giao Thủy, 2004” - Trong thơ có đò nhỏ, sông xưa, chuông chùa vang vọng… nên dễ liên tưởng dến “giấc hương quan”. Ông không “suy niệm” theo kiểu ấy nữa; Đò chiều là ngày về nhưng cũng là chuyến đi trong nỗ lực cuối cùng của hành trình truy tìm bản thể thơ ca mà nhà thơ biết không đến đích! Cái Đẹp được giải mã và xuất hiện ở một trong những chuyến sang sông cuối cùng và dang dở16:
Ta qua chưa hết chuyến đò
Thấy trăng đứng đợi bên bờ tử sinh
Thấy sông trôi lại bóng mình
Biết ta là bóng hay hình rong chơi
Tình xưa đã chết bên trời
Chiều nay sông nước đọc lời điếu tang
Hỏi quê nào biết đâu làng
Lòng không, còn lại mấy hàng mây trôi.
Đó chính là lòng không mà còn lại - trạng thái lỡ làng hưng phấn trong rượt đuổi của chữ vốn khốc liệt và phi lý.
Đề tài tình yêu trong thơ Việt Nam hiện đại đã đi sâu vào cảm xúc, tâm tư nhưng vẫn còn những khía cạnh chưa được khai thác, ít được nhắc đến. Sự đa dạng trong tình yêu “phi truyền thống” của thơ ca đương đại có thể xung đột với các giá trị truyền thống. Từ năm 17 tuổi (1963), bài thơ Giã từ quá khứ đã vượt quá ranh giới: Sau tiếng nói đôi tay thèm chiếm đoạt/ Môi dại khờ đem mật đắng trao nhau/ Rừng tóc em nở trắng những hoa sầu/ Nghe thân thể trôi dần trong tiếng khóc/.../ Anh hốt hoảng trong khu vườn đạo đức/ Em bàng hoàng trên thành phố ăn năn... Gần 30 năm sau, 1991, Phút giây vĩnh cửu thêm cột mốc mới về thơ tình của Tần Hoài Dạ Vũ cùng thể thơ văn xuôi với chất sống mới, với khát vọng và cả dục vọng ẩn hiện dưới con chữ như muốn kéo dài câu thơ không để tách rời nhau. Sự xung đột đã xuất hiện khi chủ thể đang đứng bên bờ “phi truyền thống” của yêu đương. 417 chữ đan cài trong cấu trúc hình ảnh đắm say của người giữa cuộc; không né tránh, nông nổi và “bình tĩnh kể lại” cảm xúc đỉnh điểm: Em là nỗi cám dỗ tội lỗi đồng thời là nguồn cội của mọi ân huệ. Em tràn trề mời gọi và hứa hẹn mọi lãng quên./ Này người bạn đời không hôn ước, em tươi đẹp biết bao. Mắt em là mặt biển dậy sóng, miệng em là hương rừng nồng cay, ngực em là hai chùm nho óng ả, rốn em là cốc rượu đầy ắp đắm say, thấm vào trái tim tôi run rẩy, chảy tràn qua môi răng, sực nức trong cổ họng tôi đã bao mùa cay đắng./ Hai đầu gối em là hai viên đá quý, công trình chạm trỗ của những bàn tay nghệ nhân tuyệt kỹ./ Tôi đánh mất cả thế giới - hiểu vì sao mình đánh mất - và tự nguyện lao vào ân sủng của tình em./ Trong phút giây tôi còn thoáng nhớ tới những buộc ràng tôn giáo nhưng ngay lập tức tôi cũng tin rằng chính điều tôi đắn đo mới là con quỷ của tri thức cám dỗ vì chẳng có gì tốt đẹp thiêng liêng hơn tình yêu đang vây bọc chúng tôi và men đời ngào ngạt đang mỗi lúc một dâng cao bất tận… “Thơ văn xuôi, vì thế, như một gia sản riêng có của Tần Hoài Dạ Vũ trong việc góp phần làm “giàu có” thể loại thơ văn xuôi vốn còn khá “nghèo” trong nền thi ca hiện đại Việt Nam” - PGS.TS. Trần Hoài Anh17.
Nhà nghiên cứu Phạm Phú Phong đã viết về vẻ đẹp và nỗi buồn trong thơ Tần Hoài Dạ Vũ: “Giấc mơ có thể rất đẹp nhưng chắc chắn đằng sau giấc mơ là nỗi buồn… Chân dung tự họa của thi nhân bây giờ không còn thắp lửa đấu tranh mà quay về với tình yêu, cũng có nghĩa là quay trở lại với vùng sinh quyển cố hữu của nghệ thuật là vẻ đẹp và nỗi buồn. Bởi lẽ, thơ ông “trước sau là sự tận hiến mọi nguồn sinh lực không ngừng nghỉ đến cạn kiệt của người nghệ sĩ đi tìm cái đẹp trước mọi giông bão cuộc đời. Ngay khi viết về nỗi buồn, nỗi buồn trong thơ được ông nâng niu trìu mến, nỗi buồn đẹp mà sang trọng, day dứt quặn thắt mà không bi lụy”18. TS. Huỳnh Văn Hoa cho rằng, “Thơ tình của Tần Hoài Dạ Vũ là những khúc biến tấu, đầy tinh tế và thẳm sâu tình người. Khúc biến tấu ấy được phả lên thơ bằng sự đa dạng trong cảm xúc và mới mẻ ở nội dung thể hiện, đổi mới trong ngôn ngữ diễn đạt, làm cho thơ tình Việt Nam có thêm một tiếng nói mới, tiếng nói về tình yêu với niềm mong ước được vĩnh cửu hóa…”19; GS.TS. Huỳnh Như Phương nhận định hai đoạn đường thơ Tần Hoài Dạ Vũ: “Ở đoạn thơ trước là tâm hồn của đám đông đang mở cửa hòa trong nhịp đời hân hoan; ở đoạn thơ sau chỉ còn lại một con người cô đơn với giọng kể lể thầm thì gần như bối rối. Trước, là hình ảnh thế giới của một ngày mai hát ca; giờ, là những âm bản hiện về từ quá khứ. Trước, nhà thơ là người rao truyền niềm tin và hy vọng; giờ, anh là kẻ rao bán nỗi buồn và giấc mơ”20.
5.
Đông Trình và Tần Hoài Dạ Vũ là hai tính cách và phong cách thi ca tiêu biểu của lớp nhà thơ trưởng thành từ miền Trung Việt Nam suốt 60 năm qua. Đường sống và đường thơ hai người có nét song hành, có đoạn cùng nhịp bước và cũng có lần lỡ nhịp (Chao ôi cái thuở sao mà đẹp/ Đến nỗi làm ta phải... lạc đường21; Biết đi nên lạc Phật ngồi lặng thinh22; thì ra ảo tưởng là ta đấy/ và cũng là ta kẻ trót vay…23). Trong chỗ giống nhau, họ có điều khác biệt; giữa điều khác biệt, họ có điểm tương đồng. Thời đại ấy, hành trình ấy, hồn thơ hai thi sĩ ấy còn in đậm trong ký ức nhiều thế hệ bạn đọc.
Chân dung tác giả là minh chứng cụ thể cho sự biến động/ phát triển của một giai đoạn văn học với hệ sinh thái không lặp lại. Việc tìm hiểu hai chân dung thi ca Đông Trình và Tần Hoài Dạ Vũ góp phần xác định, đối sánh, tìm ra những quy luật chung cho dòng chảy văn chương đặc trưng một thời kỳ của Đất Quảng và Đất nước.
![]() |
Biển Nhật Lệ - Quảng Bình. Ảnh Internet |
1. Đông Trình (bút danh khác: Hồng Chi, Trần Hồng Giao) tên thật Nguyễn Đình Trọng, sinh năm 1942; quê làng Đại Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình; tốt nghiệp thủ khoa Đại học Sư phạm và Đại học Văn khoa Huế năm 1968; dạy học tại Trường Trung học Phan Châu Trinh, Đà Nẵng; sau 1975, ông được cử làm Trưởng ban điều hành (Hiệu trưởng) nhà trường; sau chuyển sang Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng; có thời gian ngắn làm biên tập báo Thanh Niên... Từ những năm 1957 - 1958, ông khởi đầu bằng viết truyện ngắn trên các báo Gió Mới, Phổ Thông, Phụ Nữ Diễn Đàn, Văn Mới… Bắt đầu từ năm 1960, ông chuyển hẳn qua làm thơ và xuất hiện thường xuyên trên các nhật báo, tập san, tạp chí Đối Diện, Bách Khoa, Ý Thức, Văn, Điện Tín, Đại Dân Tộc, Thái Hoà, Đứng Dậy, Sinh Viên, Thế Hệ (Canada), Sứ Mệnh (Nhật Bản)... Ông là một trong những thành viên đầu tiên của Hội Hồng Sơn, về sau là nhóm Việt (1968).
2. Tần Hoài Dạ Vũ (bút danh khác: Nguyễn Giao Thuỷ, Nguyễn Kim Văn) tên thật là Nguyễn Văn Bổn, sinh năm 1946 tại làng Giao Thuỷ, xã Đại Hòa, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Học Quốc học Huế, lớp 11 đạt Giải nhất thơ duy nhất của Quốc học Huế (năm học 1963 - 1964); thủ khoa đầu vào, tốt nghiệp Đại học Sư phạm và cử nhân Văn khoa Huế (1969). Ông có thời gian dạy học tại Trường Trung học Trần Cao Vân, Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, rồi là Giám học Trường Trung học Quảng Điền, Thừa Thiên Huế; từ 01/4/1975, ông làm Trưởng ban điều hành (Hiệu trưởng) Trường Quốc Học Huế (1975 - 1976), Phó Hiệu trưởng Trường Trung học Nguyễn Huệ (1977 - 1978). Năm 1978, ông về công tác tại Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng; rồi làm Thư ký tòa soạn Thanh Niên (1988 - 1993), Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế - Xã hội, Đại học Duy Tân... Năm 1963, khi còn đang là học sinh lớp 10 (Đệ tam ban C), Tần Hoài Dạ Vũ đã có thơ đăng trên tạp chí Bách khoa và sau đó là các tạp chí Văn, Bách Khoa, Văn học, Việt, Đối Diện và gần như hầu hết các báo, tạp chí ở Sài Gòn, trước năm 1975, kể cả một số báo ở nước ngoài… Năm 1965 ông trở thành thành viên của Hội Hồng Sơn (từ năm 1968, do thực hiện tạp chí Việt và giữ phần văn nghệ trên tạp chí Đối Diện, nên được giới văn nghệ miền Nam gọi là Nhóm Việt). Năm 1968 - 1969 ông là Chủ tịch Ban đại diện sinh viên Đại học Sư phạm Huế. rồi được cử làm Phó Chủ tịch Hội đồng Sinh viên Liên khoa Viện Đại học Huế
3. Đông Trình: Khi mùa mưa bắt đầu (thơ, 1967); Lót ổ cho đại bác (thơ, 1968); Rừng dậy men mùa (thơ, Đối Diện, 1972) và các bài viết, nói chuyện, tranh luận báo chí… trong giới sinh viên - học sinh.
Thơ Tần Hoài Dạ Vũ đăng nhiều trên các báo, tạp chí, hợp tuyển đấu tranh của sinh viên - học sinh Huế và các đô thị miền Nam (cùng với Ngô Kha, Võ Quê, Trần Quang Long,...). Tần Hoài Dạ Vũ: Trước 1975, có hai tập thơ: Trên cánh tay hừng đông, in ronéo, 1975 (nhan đề do Mường Mán đặt); Lửa cháy quê hương, 1973, bị thất lạc khi nhà cầm quyền Sài Gòn tịch thu cùng với hồ sơ của tạp chí Đối Diện lúc ấy.
4. Việt, số ra mắt, Huế, tháng 8/1968, trang bìa sau.
5. Tên bài thơ trong tập Lấm tấm hạt đau.
6. Nguyễn Minh Châu, Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa, Báo Văn nghệ, số 49-50, ngày 5/12/1987.
7. Nguyễn Minh Hùng, Sự khác biệt trong thơ thiếu nhi của Đông Trình, https://baovannghe.vn/su-khac-biet-trong-tho-thieu-nhi-cua-dong-trinh-9188.html
8. Thơ Đông Trình.
9. Nguyễn Minh Hùng, Đông Trình và những bài thơ chợt nhớ, tạp chí Non Nước, số 296 (Tháng 10.2022).
10. Trần Duy Phiên, Một hành trình tư tưởng, lời tựa tập thơ Ngọn lửa quạnh hiu cuả Tần Hoài Dạ Vũ, NXB Trẻ, 1996.
11. Nhan đề bài thơ Tố Hữu sáng tác vào ngày 01/5/1975.
12. Sáng tác ngày 01/4/1975, báo Nhân Dân đăng ngày 09/4/1975. Theo GS. Trần Hữu Tá: “Nhà thơ trẻ ấy đã viết một hơi bài thơ dài 36 câu gồm 9 khổ, và vẫn với phong cách quen thuộc của mình: dù vui đến đâu cũng không lớn tiếng cao giọng, mà cứ như tâm sự thầm thì. Cảm xúc hạnh phúc đã được anh thể hiện ngay từ khổ thơ đầu: Em thơ ơi, đây phút đổi đời/ Mưa đang rơi trên thành phố chúng ta/ Mưa anh hùng, mưa giải phóng quê hương/ Mưa hiền hòa, những giọt mưa rất lạ.”
13. Trong khoảng mười năm đó, ông chuyển sang viết nghiên cứu, biên khảo, bút ký,… với trên dưới 30 tập sách.
14. Thơ tình Tần Hoài Dạ Vũ (NXB Hội Nhà văn, 1992), Ngọn lửa quạnh hiu (NXB Trẻ, 1996), Tình yêu và vầng trăng lửa (NXB Trẻ, 1997), Suy niệm hoàng hôn (NXB Trẻ, 2005), Tình ca trong mưa (NXB Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2011), Thơ Tần Hoài Dạ Vũ (NXB Hội Nhà văn, 2016), Phút giây vĩnh cửu (NXB Hội Nhà văn, 2018), Hãy chia tôi ra cho cuộc đời này (NXB Hội Nhà văn, 2022)...
15. https://khoanguvandhsphue.edu.vn/2022/03/29/tan-hoai-da-vu-tieu-su-van-hoc/
16. Theo tác giả, đây là bài thơ duy nhất ông đọc cho cha mình nghe lúc sinh thời.
17. PGS.TS Trần Hoài Anh, Tần Hoài Dạ Vũ và hành trình đi tìm bản thể - Nặng hơn cầm phấn, NXB Hội Nhà văn, 2023.
18. Phạm Phú Phong, Tần Hoài Dạ Vũ: Người tình của hai dòng sông, tạp chí Sông Hương, Số 44.
19. TS. Huỳnh Văn Hoa, Tình yêu như một tiếng hát thầm, tạp chí Thơ, Hội Nhà văn Việt Nam, số 9&10/2019.
20. PGS.TS. Huỳnh Như Phương, Người rao bán giấc mơ, tập Ngôi nhà và con người, NXB Văn nghệ, 2007.
21. Đông Trình, Cho tôi đổi lại thơ mình.
22. Đông Trình, Lạc.
23. Tần Hoài Dạ Vũ, Quy ẩn về đâu?