VỊ XUYÊN
Gần bốn mươi năm
Tôi về Vị Xuyên viếng bạn
Biên cương gập ghềnh, thâm u rừng vắng
Đá núi Hà Giang sắc lạnh những đường gươm.
Bạn nằm đâu?
Ngút ngàn mộ chí phơi nắng sương
Ai người có tên, ai người chưa biết?
Nắm hoa nhựa vô tri
Những chân hương bạc phếch
Nỗi đau lặng lẽ rêu phong.
Núi Đất, Lò Vôi Thế Kỷ, Bốn Hầm
Cối Xay Thịt, Đồi Thịt Băm *
Nơi nào bạn tôi về đất?
Tuổi hai mươi hóa cây, nên rừng xanh ngăn ngắt
Hồn nhập đá tai mèo, nên đá dựng hiên ngang.
Chiều
Khí núi mịt mù cao nguyên đá Hà Giang
Tôi gọi bạn - những anh hùng vô danh
quên mình vì Tổ quốc
Như ông cha ta mấy nghìn năm giữ nước
Như những liệt sĩ Hoàng Sa, Gạc Ma
thế kỷ hai mươi.
Ngước nhìn lên, uy nghiêm giữa đất trời
Trấn giữ nơi địa đầu, súng vươn nòng, không nghỉ.
Vị Xuyên ơi, những anh linh chiến sĩ: Bất tử cùng thời gian.
Nghĩa trang liệt sỹ Vị Xuyên là nơi an nghỉ của vô số anh hùng đã ngã xuống khi đang lấy thân mình “che” Tổ Quốc. |
Lời bình của Nguyễn Thị Thiện
“NHỮNG ANH LINH CHIẾN SỸ
BẤT TỬ CÙNG THỜI GIAN”
Trong cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc ta, Hà Giang là địa bàn trọng điểm bị địch lấn chiếm, phá hoại. Vị Xuyên là chiến trường căng thẳng và kéo dài, diễn ra trong nhiều năm (1979-1989), ác liệt nhất là từ 1984-1989. Tinh thần chiến đấu quả cảm và hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã khơi nguồn cảm hứng cho nhiều sáng tác hay. Trong đó, tôi và nhiều bạn khác đều rất xúc động khi đọc bài “Vị Xuyên” của nhà thơ Chử Thu Hằng.
Thi phẩm viết theo thể thơ tự do, rất phóng khoáng bởi những đợt cảm xúc khi dào dạt, lúc sâu lắng, là kết quả chuyến đi thực tế của nhà thơ viếng bạn, thăm chiến trường Vị Xuyên. Bài thơ mở đầu bằng nhịp điệu chậm rãi như nỗi niềm suy tư chất chứa của chủ thể trữ tình: ”Gần bốn mươi năm/ Tôi về Vị Xuyên viếng bạn/ Biên cương gập ghềnh, thâm u rừng vắng/ Đá núi Hà Giang sắc lạnh những đường gươm”. Kể từ khi chiến tranh biên giới phía bắc nổ ra (17/2/1979) đến ngày tác giả viếng bạn đã trải gần bốn mươi năm. Vị Xuyên, một huyện thuộc tỉnh Hà Giang, nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc: Tày, Dao, Kinh, Nùng... Vùng biên ải này ”gập ghềnh, thâm u rừng vắng”, thưa người lại qua, địa hình phần lớn là núi đá cao hiểm trở. Dùng nghệ thuật ẩn dụ nhân hóa, nhà thơ khiến thiên nhiên ấy như mang hồn - linh hồn của bao nhiêu thế hệ chiến binh với hàng ngàn, hàng vạn “những đường gươm” tua tủa “sắc lạnh” chất chứa những căm hờn trước kẻ thù ngoại bang xâm chiếm lãnh thổ, tàn phá, giết chóc người vô tội. Bộ đội chủ lực của ta sát cánh cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích chiến đấu anh dũng, bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc. Vị Xuyên là “Lò Vôi Thế Kỷ”, nơi không khí căng thẳng, sôi sục, diễn ra hàng trăm trận đánh quyết liệt. Cuộc chiến tranh chống Trung Quốc xâm lược vùng biên giới Việt Nam lần này có quy mô lớn nhất kể từ khi dân tộc ta thắng Mỹ. Rất nhiều cán bộ, chiến sĩ mọi miền của đất nước và đồng bào đã hy sinh trên mảnh đất này.
Trong niềm xúc động sâu xa, nữ sĩ thảng thốt, nghẹn ngào: ”Bạn nằm đâu?/ Ngút ngàn mộ chí phơi nắng sương/ Ai người có tên, ai người chưa biết/ Nắm hoa nhựa vô tri/ Những chân hương bạc phếch/ Nỗi đau lặng lẽ rêu phong”. Từ viếng thăm một người bạn, nhà thơ bàng hoàng xúc động trước trùng trùng mộ chí. Nghĩa trang Vị Xuyên hiện có tới hơn 1.700 mộ liệt sỹ, có tên và cả rất nhiều mộ chưa có tên bởi đạn bom, pháo kích tàn bạo của kẻ thù khiến nhiều thi thể chiến binh không thể xác định được danh tính… Những ngôi mộ giờ đây hàng nối hàng, nghiêm trang y như đội hình những người lính sát cánh bên nhau trong đội ngũ trước giờ vào trận. Hình ảnh hoa nhựa và chân nhang gợi bao lên xót xa, thương cảm… Là người từng trải, nhà thơ nhắc nhớ và liệt kê hàng loạt địa danh: ”Núi Đất, Lò Vôi Thế Kỷ, Bốn Hầm/ Cối Xay Thịt, Đồi Thịt Băm…/ Nơi nào bạn tôi về đất?”. Những địa điểm đó là nơi diễn ra các trận đánh dữ dội, tàn khốc nhất. Việc đưa địa danh vào thơ vốn không hề dễ dàng, khó nhất lại là những cái tên gắn với những trận đánh kinh hoàng lấy đi biết bao sinh mạng. Vậy mà tác giả đã liệt kê ra được tới 5 biệt danh liên tiếp chỉ trong một câu thơ. Những địa danh đất đá, núi rừng mà chỉ thoáng nghe tên cũng đã rùng mình ghê rợn về sự thảm khốc của chiến tranh và chết chóc.
Trong cuộc xâm lấn này, đối phương lấy số đông cùng với vũ khí hạng nặng để tấn công, bộ đội ta kiên quyết chống trả, chiến đấu kiên cường, giành giật với địch từng tấc đất, gốc cây, con suối… Rất nhiều chiến sĩ ta ngã xuống khi tuổi đời còn rất trẻ. Những vần thơ tác giả viết về sự hy sinh của các liệt sĩ như toàn bằng nước mắt - nước mắt của tình yêu thương, lòng ngưỡng mộ, nước mắt của tấm lòng nhớ tiếc, xót xa và cảm phục: ”Tuổi hai mươi hóa cây, nên rừng xanh ngăn ngắt/ Hồn nhập đá tai mèo, nên đá dựng hiên ngang”. Sự hy sinh, tinh thần chiến đấu quên thân vì đất mẹ Tổ quốc của những anh hùng vô danh ấy không hề vô nghĩa. Anh linh, thể phách, hồn thiêng của các anh hòa nhập, tạc khắc vào đá núi, rừng cây. Các anh đã phát huy truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc. Các anh đã tiếp bước rất xứng đáng những bậc tiên hiền đi mở cõi, khởi dựng giang sơn trước đây và cũng”Như những liệt sĩ Hoàng Sa, Gạc Ma thế kỷ hai mươi”. Các anh đã và còn sống mãi trong trái tim những người ở lại. Tất cả những thế lực xâm lấn biên giới hay hải đảo của nước Việt nhất định phải trả giá cho hành động phi nghĩa mà chúng gây ra.
Khép lại bài thơ là những dòng suy tưởng giàu sức khái quát của tác giả: ”Ngước nhìn lên, uy nghiêm giữa đất trời/ Trấn giữ nơi địa đầu, súng vươn nòng, không nghỉ./ Vị Xuyên ơi, những anh linh chiến sĩ/ Bất tử cùng thời gian”. Đoạn thơ giàu hình ảnh làm sống dậy khu nghĩa trang Vị Xuyên cùng hàng nối hàng bia mộ uy nghiêm như đội ngũ những anh hùng thầm lặng bám đá, giữ đất kiên cường. Ý thơ ở đây có đồng điệu cảm xúc với những câu thơ của Lê Anh Xuân: “Không một tấm hình không một dòng địa chỉ/ Anh chẳng để lại gì cho riêng anh trước lúc lên đường/ Chỉ để lại cái dáng đứng Việt Nam tác vào thế kỷ… Anh là chiến sĩ Giải phóng quân” (Dáng đứng Việt Nam). Người chiến sĩ lúc còn sống và khi ngã xuống đều một lòng kiên trung trấn giữ vùng phên giậu Tổ quốc. Hình ảnh thơ giàu sức khái quát đã bày tỏ tấm lòng ngưỡng mộ và ngợi ca sự hy sinh cao cả của các thế hệ người Việt từ xưa đến nay trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, dâng hiến cả tính mạng cho Việt Nam muôn muôn năm độc lập cho giang sơn mãi mãi được trường tồn.
Bài thơ mang dấu ấn rõ nét sự đổi mới về hình thức thể hiện nhưng vẫn có kết cấu chặt chẽ, cảm xúc chân thành, lắng đọng của thơ. Thêm một lần nữa nữ nhà thơ nói hộ người đọc tấm lòng cảm phục và niềm tri ân sâu sắc tới các liệt sĩ, và những người lính Cụ Hồ nói chung. Những con người bình dị ấy sống anh dũng, chết vẻ vang. Các anh mãi bất tử trong lòng bạn hữu, người thân và đồng bào cả nước.
* Những địa danh diễn ra các trận đánh ác liệt trong Chiến tranh biên giới 1979-1989.
Nguyễn Thị Thiện |Báo Văn nghệ
-------------------
Bài viết cùng chuyên mục