“Hai con còn sống tới hòa bình là may mắn lắm, vì cổ nhân nói: ‘Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?’, là ‘Xưa nay chinh chiến mấy ai về?’ Câu thơ ấy của Vương Hàn, nhà thơ thời nhà Đường. Nhìn hai con bây giờ thầy mừng lắm!”
Tôi thời học đại học cũng bập bõm mấy câu thơ Đường, trong một số câu thơ Đường mà tôi nhớ, có câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”.
Sau này, khi viết bài thơ tưởng nhớ anh Khương Thế Hưng, từ vô thức tôi có một câu thơ gần giống câu thơ của Vương Hàn:” Ra chiến trường ai biết ngày trở lại”. Thời chiến tranh, chuyện người lính ra đi không trở về là chuyện bình thường, ai đã ra chiến trường đều phải chấp nhận điều đó. Bài thơ của Vương Hàn nói lên nỗi đau ấy một cách nhẹ nhàng, nhưng nó sống mãi tới hơn nghìn năm, vì nó nói đúng nỗi lòng của người ra lính thời chiến tranh. Vì thế, thơ muốn còn lại, phải nói lên được nỗi lòng con người, số phận con người. Thời chiến có nỗi đau thời chiến, thời bình có nỗi khổ thời bình, thơ phải đi thật sâu hết cỡ vào nỗi đau nỗi khổ ấy, thì nó mới mong tồn tại. Đọc thơ Đường nói chung, thơ Vương Hàn nói riêng, điều tôi thấm thía nhất, chính là tầm nhìn xa rộng của những bài thơ ấy. Thơ có thể nói một chuyện cụ thể, một điều bình thường, nhưng cùng lúc, thơ phải quét cái nhìn của mình ra thật xa, bao trùm thật rộng, từ không gian tới thời gian.
Vương Hàn (khoảng 687 - sau 726) là một nhà thơ thời Đường, nổi tiếng với những bài thơ miêu tả cảnh chiến tranh và biên ải, thường được xếp vào nhóm các nhà thơ biên tái. Ông sinh ra trong một gia đình quan lại, và mặc dù có tài năng, ông không đạt được nhiều thành công trong sự nghiệp quan trường. Ông được biết đến nhiều nhất qua bài thơ “Lương Châu Từ”, một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt nổi tiếng về vẻ đẹp và sự khắc nghiệt của vùng biên giới phía bắc.
Thơ hiện đại có rất nhiều khác biệt so với thơ Đường, nhưng khi đều là thơ cả, thì người đọc chỉ yêu thích bài thơ nào gây cho họ những xúc cảm đặc biệt, để họ phải nhớ. Tôi xin dẫn bài thơ “Tống hữu nhân” (Tiễn bạn) của thi hào Lý Bạch. Bài thơ này Lý Bạch viết từ năm 743, cách đây tới 1282 năm. Một khoảng cách kinh khủng về thời gian. Vậy mà bây giờ ta đọc lại, vẫn thấy xúc động. Tôi nhớ, thời học đại học, tôi đã thuộc bài thơ này, cả bản Hán-Việt, và tới bây giờ vẫn không quên:
![]() |
Thi hào Lý Bạch (701 -762) |
LÝ BẠCH
Thanh sơn hoành bắc quách,
Bạch thuỷ nhiễu đông thành.
Thử địa nhất vi biệt,
Cô bồng vạn lý chinh.
Phù vân du tử ý,
Lạc nhật cố nhân tình.
Huy thủ tự tư khứ,
Tiêu tiêu ban mã minh.
(Năm 743)
Chạy dài cõi bắc non xanh,
Thành Đông nước chảy quanh thành
trắng phau.
Nước non này chỗ đưa nhau,
Một xa, muôn dặm biết đâu cánh bồng!
Chia phôi khác cả nỗi lòng,
Người như mây nổi, kẻ trông bóng tà.
Vái nhau thôi đã rời xa,
Nhớ nhau tiếng ngựa nghe mà buồn teo
Bản dịch ra lục bát của Tản Đà quá hay, nhất là từ thơ ngũ ngôn nghiêm ngặt về vần điệu chuyển sang lục bát như gió thoảng mây bay, vậy mà cả nguyên tác và bản dịch đều làm hài lòng mọi người yêu thơ.
Thơ Đường quả thật vẫn hút hồn người Việt, cách nhau hơn nghìn năm sao cứ gần. Thơ Đường có khả năng kéo cả nghìn năm vào một khoảnh khắc, và chỉ từ một khoảnh khắc, thời gian có thể “đứng hình” cho người đến sau cả nghìn năm cảm nhận được những xúc cảm những hình ảnh của nghìn năm trước. Vận hành tính theo theo chiếu thứ tư, chiều thời gian, “tốc độ thơ Đường” có thể nói là nhanh hơn tốc độ ánh sáng.