Các nhà nghiên cứu ở nhiều thời đại đều nhận thấy Đức Phật - một con người có thật, không phải thần thánh - cũng có lúc phiền lòng, cũng tức giận, cũng ưu tư trước những biểu hiện vô minh của người đời.
Nhưng thiên hạ không tin là Phật có những cảm xúc ấy. Người ta luôn tin rằng Phật là bậc đại giác ngộ, là siêu phàm, là đạt đến độ vô vi, vượt thoát mọi trạng thái xúc cảm, vượt thoát mọi giác quan của người trần mắt thịt. Đã là bậc siêu phàm thì không phân biệt được mất hơn thua cao thấp trong ngoài...
Hai quan điểm trái ngược này xuất phát từ việc tách biệt hai khái niệm:
1. Phật là một con người có thật trong lịch sử (The Historical Buddha), có sinh có diệt, một hiền giả và một nhà đạo đức học.
2. Phật là một trạng thái, đạt đến trạng thái đó, người ta bừng ngộ, được khai sáng, thấu suốt quy luật nhân sinh, thoát khỏi mọi khổ đau quyến luyến tầm thường.
Hai quan điểm xuất phát từ hai câu hỏi rất không giống nhau: Phật là gì và Phật là ai? Rất nhiều khi câu hỏi Phật là ai được hiểu thành Phật là gì, bằng cách ấy người ta gán cho Buddha những phẩm chất của thần thánh - khi đó Ngài được thần thánh hóa.
*
Phật là gì?
| Đức Phật cho rằng trong mỗi con người đều tiềm ẩn một vị Phật, vậy là ai cũng có khả năng thành Phật, thành người giác ngộ, vượt thoát ra khỏi vòng khổ ải đeo bám nhân loại. |
Đức Phật cho rằng trong mỗi con người đều tiềm ẩn một vị Phật, vậy là ai cũng có khả năng thành Phật, thành người giác ngộ, vượt thoát ra khỏi vòng khổ ải đeo bám nhân loại. Khi đạt đến trình độ giác ngộ đó, người ta không còn bám vào các định kiến các thành kiến, không mảy may quan tâm đến sự khác biệt giữa được và mất, giữa hơn và kém, không còn tham vọng hão huyền... Giác ngộ khi ấy là một trạng thái lý tưởng, vượt qua mọi cảm xúc trần thế thông thường.
Sau khi Đức Phật đã khai minh ở “viện nghiên cứu Bồ Đề Đạo Tràng” bên gốc cây bồ đề ở Boddhgaya, Ngài đã đi hơn hai trăm cây số đường rừng về đến Sarnath (Lộc Uyển), gặp lại năm anh em nhà nọ. Năm người này nhớ ra ngay Ngài là vị ẩn sĩ từng đồng tu khổ hạnh với họ, tên là Siddhattha. Không, Phật nói, ta không còn là Siddhattha nữa, ta là Buddha.
Buddha (बुदध) là trạng thái giác ngộ, tỉnh thức, được khai sáng, hiểu thấu quy luật cuộc đời.
Buddha cũng là khái niệm để chỉ người giác ngộ. Ngài là Phật, và trong thiên hạ cũng có nhiều người khác đã và sẽ thành Phật.
Đức Phật chính là một hiện thân hội tụ đầy đủ hai yếu tố Phật là ai và Phật là gì, không hề tách biệt: Ngài vừa là một nhân vật lịch sử, vừa mang Phật tính. Tấm thân phàm có thể nhập diệt trong cuộc Đại Niết bàn, nhưng Phật tính vẫn hiện hữu qua nhiều thời đại.
Nhân tiện thì nói, chữ Buddha बुदध chỉ có một âm tiết, phát âm gần như Bụt trong tiếng Việt. Phương Tây thì hầu như các nước đều phát âm nhầm là Buđa, hai âm tiết.
*
Phật là ai?
Tên chào đời của Ngài là Siddhattha Gautama (Tất Đạt Đa - Cồ Đàm), Ngài sinh năm 563, nhập diệt năm 483 trước Công nguyên, thọ tám mươi tuổi.
Siddhattha là thái tử ở nước Cộng hòa Sakya (Thích Ca), ở miền Bắc Ấn Độ cổ đại, ngày nay ở cạnh đường biên giới India - Nepal. Năm ba mươi lăm tuổi Ngài giác ngộ, từ đó thiên hạ gọi ngài là Sakya Muni (hiền giả xứ Thích Ca).
![]() |
| Đức Phật chính là một hiện thân hội tụ đầy đủ hai yếu tố Phật là ai và Phật là gì - Ảnh: Poojn India |
Trong thời gian bốn mươi lăm năm đi truyền giảng và dẫn dắt đệ tử, Phật đã gây được ảnh hưởng ở hầu khắp các tiểu vương quốc và các nước cộng hòa ở miền Bắc và miền Trung Ấn Độ. Ở vị trí một hiền giả, một đại sư, Buddha đã được hưởng niềm hân hoan và an lạc khi thấy sự trưởng thành của rất nhiều học trò và sự tỉnh thức của chúng sinh.
Buddha bằng lòng, đấy là trạng thái cảm xúc rất thật, như của mọi người trần thế.
Những thành công trong sự nghiệp truyền giảng của người thầy lớn Buddha đã được nói nhiều trong kinh sách, ta không cần phải nhắc lại ở đây.
Nhưng mặt khác, cũng như một người trần thế đích thực, người thầy ấy cũng có những cảm xúc trái ngược với niềm hạnh phúc: Ngài cũng có lúc phiền lòng, tức giận, hoặc chua chát âm thầm.
Sử sách còn ghi lại việc khi thấy có những “học viên” trong giáo đoàn, học mãi mà không tinh tấn, không tiến bộ, Ngài có kiên trì dạy bảo, rồi không giấu được nỗi bực mình, Ngài cũng có lần quở trách: “Này, kẻ ngu si kia...”
Và với những đồ đệ xuyên tạc giáo lý, vô tình hoặc cố ý, Phật chuyển từ trạng thái buông xả sang thế công: “Này kẻ ngu si kia (mogapurisa), do ai mà ông nghe rằng ta đã thuyết giảng giáo pháp như vậy? Này kẻ ngu si kia, ta đã chẳng từng dùng nhiều pháp môn nói rằng thức do duyên khởi (và vì thế không thể tồn tại mãi sau khi chết) hay sao? Này kẻ ngu si kia, ông không chỉ xuyên tạc ta vì định kiến sai lạc, mà tự còn làm hại mình và tạo nhiều tổn đức đưa đến bất hạnh lâu dài” [1].
Cũng có khi ngài nhận ra sự cố chấp của mình mà cầu thị nhân nhượng. Bà dì Pajapati của Phật có nguyện vọng được trở thành tín đồ. Ban đầu, Phật từ chối. Ngài trân trọng nữ giới, qua việc Ngài từng nói với đại vương Pasenadi khi hoàng hậu sinh con gái rằng một nữ nhân còn đáng quý hơn nam tử, nếu như nữ nhân giỏi giang đức hạnh, thờ cha kính mẹ, tôn kính chồng cùng gia đình chồng. Nhiều nữ nhi còn hơn cả nam nhi về lòng nhân từ và đức hy sinh. Tuy vậy, Phật cũng thấy một thực tế: nữ nhân thời ấy ít người được học hành, khó mà tu tập trong biển lý luận vốn không dễ tiếp thu, như vậy dễ dẫn đến sai trái trong nhận thức và hành vi.
Nhưng rồi Ngài phải nhân nhượng bà dì của mình, cũng là người mẹ kế chăm sóc Ngài từ khi lọt lòng. Áp lực càng lớn khi bà còn dẫn theo cả trăm nữ nhân già trẻ, chân trần đi bộ mấy chục dặm đường, đến gặp Phật để yêu cầu được lập giáo đoàn sư nữ. Rốt cuộc Phật phải thỏa hiệp với thực tế, rồi Ngài dự báo: “Giống như những gia đình nào có nhiều nữ nhân và ít nam nhân dễ trở thành mồi ngon cho bọn đạo tặc cướp tài sản, cũng vậy là giáo hội có nữ giới được phép xuất gia...”, và “Chính pháp có thể tồn tại một nghìn năm. Nhưng nay vì nữ giới đã được xuất gia, đời phạm hạnh sẽ không tồn tại lâu dài, và chính pháp sẽ chỉ tồn tại năm trăm năm” [2].
Đến nay, Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm.
Cũng cần biết thêm chuyện về nhánh giáo đoàn ở tiểu vương quốc Vamsa. Ở đó có nhà sư xiêu vẹo bê tha sau khi ghé vào nhà cư sĩ rượu chè túy lúy, thành trò cười cho dân chúng, đến mức Phật phải lập tức đề ra luật cấm rượu trong toàn giáo hội.
![]() |
| Ảnh: VS Battles Wiki |
Giáo đoàn ở xứ Vamsa xảy ra mâu thuẫn giữa hai phái đòi thi hành kỷ luật một khất sĩ thành viên. Mâu thuẫn từ đấu khẩu sang thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Phật có mặt ở đó đã phải cao giọng khuyên can: “Này này những kẻ ngu si kia, không đấu khẩu, không tranh giành hiếu thắng nữa, người ta không hơn gì nhau câu nói”. Đến thế lời lẽ của người thầy cũng không còn tác dụng với những kẻ vô minh, họ còn nói hỗn. Phật bực mình bỏ đi. Lại thêm vị tiểu vương ở Vamsa là người thế tục, không thiện chí với một tôn giáo mới như đạo Phật. Phật nhận thấy tiểu vương quốc này không phải là đất lành để gieo trồng đức tin. Ngài bỏ đi và cho đến khi nhập diệt là ba mươi bảy năm, Ngài không một lần quay lại nơi ấy.
Những năm cuối đời, Phật cũng nhiều ưu tư. Ngài nhìn thấy có những đại đức những khất sĩ trong giáo đoàn chểnh mảng tu tập, xuyên tạc giáo lý hoặc mưu toan sửa đổi Phật pháp để thỏa hiệp với thực tế. Họ thích lui tới nhà cư sĩ để ăn tiệc và huênh hoang giáo lý. Họ ngấm ngầm hãnh diện về tặng phẩm là những tấm áo cà sa lụa là gấm vóc đắt tiền, như thể được tụng ca, được ăn ngon mặc đẹp là hơn nhau về thứ bậc. Ngài cũng có lúc cám cảnh nhận thấy sự tha hóa cùng lúc tồn tại trong những con người mang sứ mệnh đi gieo trồng hạt giống phúc thiện, không sát sinh không bạo lực, buông bỏ bớt những quyến luyến dính mắc phù phiếm ở đời. Ngài cũng thấu suốt cái hữu hạn của việc giáo dục, nhưng gồng gánh thiên chức của một người thầy lớn, Ngài vẫn phải tiếp tục vai trò dẫn dắt của mình.
*
Buddha là một hiền giả, một đạo sư, một người thầy lớn. Ngài không phải là bậc thần thánh.
Ngành tôn giáo học phân chia các bậc giáo chủ sáng lập tôn giáo thành hai kiểu người: nhà tiên tri và hiền giả.
- Nhà tiên tri (prophet) là người nhiệt tình tìm cách cải tạo thế giới theo ý Thượng Đế. Tâm trí họ luôn ám ảnh rằng họ được khải thị và thiên hạ phải tuân lệnh Thượng Đế tối cao. Nhà tiên tri luôn hứa hẹn đem hạnh phúc đến cho chúng sinh, kèm theo cả lời đe dọa rằng kẻ tội lỗi sẽ bị đọa đày. Nhà tiên tri cuồng nhiệt xông pha vào đời sống để thay đổi nó, không ngại xung đột với những thế lực theo nếp cũ. Họ có thể truyền giảng kêu gọi thiên hạ đối đầu với chính quyền bảo thủ, thậm chí dùng đến cả biện pháp vũ trang để truyền giáo. Họ không né tránh tranh chấp, tranh chấp cả bằng lý lẽ và vũ lực, và trong xung đột họ có thể phải tuẫn tiết, phải vong thân bằng các khổ hình.
- Hiền giả cho rằng giải thoát khỏi đau khổ trần thế là ở nội tâm, là ở nỗ lực của mỗi người, không trông chờ ở ngoại giới hoặc những đấng thần linh không có thật. Hiền giả còn được gọi là nhà huyền bí (mystic) ở chỗ trí tuệ vượt thoát sự hiểu biết thông thường của con người. Khác với nhà tiên tri, hiền giả sống hòa hợp với thế giới xung quanh mình, trong một trạng thái thanh thản, an nhiên tự tại, buông xả nội tâm.
Phật là một bậc hiền giả như vậy.
*
Trong Phật giáo có khái niệm Niết bàn (निर्वाण nirvana), và khái niệm này cùng lúc có hai cách hiểu:
1. Niết bàn là một trạng thái: đấy là khi người ta thoát khỏi vòng luân hồi sinh diệt, chuyến đi một chiều, đi hẳn, không quay trở lại bể trầm luân khổ ải của chúng sinh nữa. Trạng thái này khởi lên trong tâm người được giải thoát, một sự giải thoát hoàn toàn, triệt để, không thể đảo ngược (अंतिम मोक्ष final salvation).
2. Niết bàn là một nơi chốn, địa điểm: người ta ra khỏi cõi thế chồng chất khổ đau, đạt tới một chỗ ngồi ở nơi an lạc tột cùng. Nơi chốn này vốn đã hiện hữu từ lâu, trước thời điểm giải thoát của cá nhân, người ta nhờ giải thoát mà “nhập” vào đó. Phật từng miêu tả niết bàn: “Có một trú xứ (àyatana) không có đất, cũng không có nước, cũng không có lửa, cũng không có gió. Đây chính là khổ diệt” (Udàna 8.1).
Tùy duyên, người ta có thể được giải thoát trước khi lìa bỏ xác phàm (Niết bàn, nirvana), hoặc là sau đó (gọi là Đại Niết bàn, parinirvana).
![]() |
| Phật là bậc hiền giả sống hòa hợp với thế giới xung quanh mình, trong một trạng thái thanh thản, an nhiên tự tại, buông xả nội tâm - Ảnh: Boeddha-Beelden |
Có thể suy ngẫm thêm: hậu tố của một từ có hai âm tiết là niết-bàn (nibbana, tiếng Pali), chữ “bàn” trong tâm thức người Việt dường như được tượng hình nôm na là một ban thờ thiêng liêng hoặc một tòa thượng - tòa sen.
Khi Phật giáo ra khỏi Ấn Độ, sang đến Trung Quốc và một số nước Đông Á, khái niệm niết bàn thiên về cách hiểu là một nơi chốn - cõi cực lạc. Niết bàn được đưa ra thành lời hứa hẹn cho những người nỗ lực tinh tấn tu học, để giác ngộ và được giải thoát. Bằng cách này, những thầy tu thỏa hiệp ở Đông Á có lẽ muốn người ta hiểu trạng thái giải thoát hoàn toàn là một kiểu thiên đường.
Phật giáo gần với một hệ thống triết học và đạo đức học hơn là một tôn giáo. Trong Phật giáo không có thần thánh, không thờ lửa không thờ sông nước như đạo Bà La Môn trước đó. Phật giáo cũng không có thiên đường và không hứa hẹn cho ai một tặng phẩm nào cả.
Khi có đồ đệ tuyên bố mình có phép thần thông, chẳng hạn đi trên mặt nước, nhấc cả hai chân lên cao hơn mặt đất, có phép tàng hình, thậm chí có người thích thú hành nghề bói toán… Phật bèn hỏi họ: Những phép thần thông ấy có giúp gì cho ta trên con đường tu tập hòng thoát khỏi nỗi khổ sinh lão bệnh tử ở đời này không?
Đồ đệ tất nhiên đã trả lời là không.
Không. Vậy thì rõ ràng việc triển thi những phép thuật huyên truyền đó là không có ý nghĩa trong quá trình tu tập của đạo thoát khổ.
Lại có lần khác, có đồ đệ tôn Phật là bậc thánh nhân, người đưa chúng sinh đi đến cõi cực lạc. Phật bác bỏ cái gọi là cõi cực lạc, đồng thời cũng xua tan khái niệm thánh nhân. Phật tự nhận rằng Ngài là người chỉ ra con đường cho người ta đi đến giải thoát. Người chỉ đường không thể bắt buộc thiên hạ phải đi con đường ấy. “Trong các đệ tử được ta thuyết giảng, chỉ có một số đạt tới sự giác ngộ tối thượng, một số khác thì không. Ta biết làm gì được? Ta chỉ là người chỉ đường” [3].
| Phật chỉ là người chỉ đường. Ngài không bao giờ khai triển phép thần thông, không hứa hẹn ban tài phát lộc cho bất cứ ai. Ngài là một hiền giả, một giảng sư với trọn vẹn ý nghĩa của những danh từ đó. |
Phật chỉ là người chỉ đường. Ngài không bao giờ khai triển phép thần thông, không hứa hẹn ban tài phát lộc cho bất cứ ai. Ngài là một hiền giả, một giảng sư với trọn vẹn ý nghĩa của những danh từ đó. Ngài đã giác ngộ nhưng chọn con đường ở lại với trần thế, để dẫn dắt chúng sinh. Hành trình với chúng sinh không chỉ hạn hẹp trong sinh thời của Ngài mà là hành trình xuyên qua các thời đại. Khi ở trên trần thế, Ngài vẫn là một con người bình dị, sống an nhiên tự tại. Dù cũng có lúc phiền muộn, có lúc bực dọc, có lúc phẫn nộ, có lúc âm thầm ưu tư, nhưng Ngài sống hòa hợp, không xung khắc với đời.
Không khởi lên xung đột với cõi trần, hiền giả khác bậc tiên tri ở chỗ đó.
1. MN 38. Trung bộ kinh số 38 - Đại kinh đoạn tận ái.
2. CV 10.1.6 giản lược, hoặc AN. 4.-6.51 - Tăng Chi Bộ chương Tám Pháp, phẩm 6: Gotamì.
3. MN 107. Trung bộ kinh 107, Kinh Ganaka Moggallana.