Tại hội thảo “Phát triển công nghiệp điện ảnh trong kỷ nguyên mới”, đại diện cơ quan quản lý, nhà nghiên cứu, nhà phát hành và người làm phim đưa ra những góc nhìn xoay quanh việc thúc đẩy phát triển điện ảnh đương đại.
Theo số liệu bà Đinh Thị Thanh Hương - Chủ tịch Galaxy Studio cung cấp, năm 2024, phim Việt chiếm 42% thị phần thị trường rạp Việt, còn năm nay, đến thời điểm hiện tại, con số nâng lên 62%. So với năm 2019, trước khi bùng dịch Covid-19, điện ảnh nội địa có sự phát triển vượt trội. Bà cho rằng đây là thành tích đáng tự hào, bởi một số quốc gia trong khu vực đến nay vẫn chưa khôi phục được diện mạo điện ảnh như trước thời đại dịch.
PGS.TS. Tạ Quang Đông - Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - cũng nhận định “điện ảnh Việt Nam đang đi đúng hướng”. Theo đó, điện ảnh nằm trong dòng chảy chuyển mình mạnh mẽ của văn hóa - nghệ thuật nói chung, bên cạnh âm nhạc, văn học. Các năm gần đây, phim Việt liên tục có tác phẩm đạt doanh thu vài trăm tỷ đồng, có lượng người xem vượt ngoài mong đợi. Minh chứng hùng hồn là phim Mưa đỏ với doanh thu hơn 714 tỷ đồng, kế đến là Mai với 551 tỷ đồng. Bên cạnh đó, ngành điện ảnh trong nước cũng tự chủ được vấn đề kỹ thuật, công nghệ, sau nhiều năm phải mang phim ra nước ngoài hậu kỳ.
PGS.TS. Bùi Hoài Sơn - Ủy viên thường trực Ủy ban Văn hoá, Giáo dục của Quốc hội - ghi nhận các con số mà bà Thanh Hương đưa ra là tín hiệu khởi sắc của điện ảnh Việt, nhưng người làm nghề và cơ quan quản lý không nên chủ quan. “Đó là sự khởi sắc ở sân nhà, nếu ra quốc tế thì sao?”, ông đặt câu hỏi. Đối với các bộ phim chủ đề chiến tranh và lịch sử được đón nhận hai năm gần đây, ông coi đó là hiện tượng cần giải mã. Bên cạnh chất lượng phim, thị hiếu thời đại, ý thức dân tộc của người dân và sự vào cuộc tuyên truyền của nhiều cơ quan quản lý cũng đóng vai trò quan trọng.
![]() |
| Đạo diễn Victor Vũ thích khai thác văn hóa truyền thống trong các tác phẩm điện ảnh. |
Hơn 20 năm công tác trong ngành khoa học văn hóa, PGS.TS. Bùi Hoài Sơn nhận thấy các tác phẩm văn hóa đại chúng ăn khách trên thế giới đều có điểm chung là giàu tính bản địa. Học hỏi tinh thần “More local, more international” (càng bản địa, càng quốc tế), ông cho rằng: “Điện ảnh là ngôn ngữ của toàn cầu, đó là lợi thế đầu tiên của phim Việt khi bước ra thế giới. Nhưng muốn chinh phục công chúng nước ngoài, câu chuyện phải thật Việt Nam, trăn trở về số phận người Việt Nam. Phim như vậy được Oscar hay không thì tôi không biết, nhưng chắc chắn được đánh giá cao. Nếu phim Việt kể chuyện quốc tế cho công chúng quốc tế xem thì vô nghĩa lắm”.
Cùng quan điểm, đạo diễn Victor Vũ chỉ ra bên cạnh cập nhật thị hiếu khán giả, yếu tố quan trọng trong làm phim hiện nay là gìn giữ bản sắc Việt, bởi mọi thứ có thể thay đổi nhưng giá trị truyền thống luôn bền vững theo thời gian. Và nếu thể hiện tinh tế, chân thật, câu chuyện trên màn ảnh sẽ tạo ra sự kết nối với khán giả.
Trở về từ phương Tây, Victor Vũ luôn có hứng thú tìm hiểu, khám phá văn hóa Việt. Với anh, văn học nội địa là nguồn tài nguyên phong phú cho điện ảnh và cổ phục, lễ giáo truyền thống là chất liệu kể chuyện trong các tác phẩm. Theo nhà làm phim, không phải đề tài nào cũng đủ sức ăn khách cả trong và ngoài nước. Nhưng trước khi tiến quân ra quốc tế, bộ phim phải kể câu chuyện Việt Nam. Anh phát biểu: “Phim ảnh muốn đi xa phải bám vào gốc rễ. Đó là giá trị độc đáo của phim”.
TS. Trần Thị Phương Lan, Vụ trưởng Vụ Văn hóa - Văn nghệ, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, quan niệm: hội nhập quốc tế là câu chuyện tất yếu trong phát triển văn hóa hiện đại. Đứng trước nỗi lo hội nhập có thể đánh mất bản sắc trong sản phẩm văn hóa - văn nghệ, mỗi tác phẩm, mỗi người nghệ sĩ cần khoác lên mình sứ mệnh bảo vệ giá trị dân tộc.
Củng cố thêm những quan điểm này, Thứ trưởng Tạ Quang Đông khẳng định hồn cốt người Việt trong kịch bản, câu chuyện là tiêu chí trọng tâm để Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch lựa chọn phim gửi tới hạng mục “Phim quốc tế xuất sắc” tại Giải thưởng Oscar hằng năm. Đào, phở và piano hay Mưa đỏ đều được xét duyệt nhờ đặc trưng này, bên cạnh các tiêu chuẩn Viện Hàn lâm Khoa học và Điện ảnh Mỹ đưa ra, cũng như tính ăn khách của phim tại thị trường nội địa.
Các khách mời tại hội thảo đồng lòng mong muốn mở rộng phát triển điện ảnh Việt trở thành phát triển ngành công nghiệp điện ảnh Việt. Nghĩa là ngoài nâng cao chất lượng tác phẩm, cần chăm chút cho vận hành thị trường, công nghệ làm phim, hệ sinh thái điện ảnh gồm phim trường, rạp chiếu, thiết bị… Thứ trưởng Tạ Quang Đông cho rằng trong hành trình này, con người là yếu tố quan trọng nhất. Còn với ông Bùi Hoài Sơn, nhân lực hiện là phương diện yếu nhất.
Ông Bùi Hoài Sơn giải thích: “Phát triển công nghiệp điện ảnh phụ thuộc nhiều vào tư duy làm điện ảnh. Ngày xưa, nghệ sĩ cứ làm phim theo đơn đặt hàng của nhà nước, không cần quan tâm thị hiếu khán giả. Còn hiện tại, tác phẩm phải được làm chuyên nghiệp và có sự gần gũi với công chúng. Người làm phim bây giờ không chỉ làm phim, còn phải có kỹ năng khai thác văn hóa, kinh doanh, làm thương hiệu cá nhân, hỗ trợ đưa phim ra thị trường”.
Bằng trải nghiệm của người trong cuộc, đạo diễn Victor Vũ cho rằng người làm phim cần không ngừng học hỏi, cập nhật xu thế thời đại cả về nội dung và kỹ thuật, bởi khán giả ngày nay đòi hỏi cao mỗi khi chi tiền mua vé vào rạp. Bản thân anh cũng làm quen với những vai trò bên lề của một nhà làm phim, ví như sử dụng mạng xã hội để quảng bá phim một cách hiệu quả.
Đồng hành cùng những nỗ lực từ phía người làm phim, các chuyên gia cho rằng cơ quan quản lý nhà nước cũng cần những chính sách phù hợp dành riêng điện ảnh. Thứ trưởng Tạ Quang Đông khẳng định các lãnh đạo Đảng và nhà nước hiện đặc biệt chú ý đến phát triển văn hóa. Ông chia sẻ: “Lãnh đạo cao cấp nhất từng đến xem phim, thăm bảo tàng, dự tổng duyệt các chương trình văn hóa và nghệ thuật. Những sự hiện diện ấy vô cùng đáng quý, là động lực mà cũng là áp lực cho những người quản lý như tôi, trong việc tìm đường hướng phát triển điện ảnh”.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn cũng tin rằng nhà nước không tiếc tiền cho nghệ thuật và điện ảnh. “Chỉ tiếc nhà nước không có nhiều tiền”, ông nói vui trong hội thảo. Chính vì nguồn lực nhà nước có hạn, ông đánh giá việc huy động nguồn lực tư nhân là cần thiết. Nguồn lực này không chỉ là vốn đầu tư mà còn là tư duy nhạy bén, quy trình làm phim nhanh nhẹn và tư duy vận hành thị trường chuyên nghiệp.
Tuy nhiên, để sự kết hợp này diễn ra hiệu quả, nghị định hướng dẫn cụ thể về hợp tác công tư cần được ban hành. Ngoài ra, ông Bùi Hoài Sơn cho rằng luật thuế, luật đất đai, luật quản lý và sử dụng tài sản công cần có quy định cụ thể và thuận lợi hơn với ngành điện ảnh. “Đầu tư cho điện ảnh phải mang tính dài hạn, không thể tính lời lãi trong vài ba năm. Thuế điện ảnh phải thuận lợi hơn các lĩnh vực khác mới thu hút được đầu tư tư nhân”, ông phân tích.
Cũng theo PGS.TS. Bùi Hoài Sơn, tổ chức các LHP quốc tế tại Việt Nam và mang phim Việt Nam tham dự nhiều LHP trên thế giới là hoạt động cần duy trì để tạo thương hiệu cho điện ảnh Việt. Song song đó, các quỹ điện ảnh mở cửa với các dự án phim ít tính thương mại nhưng giàu tiềm năng phát triển nghệ thuật là phương diện không thể thiếu. Trên hết, cơ quan quản lý cần tạo ra một thị trường phim đủ phong phú, để mọi nhà làm phim thực hiện được ý tưởng mà họ “thai nghén”.