Lê Trắc黎崱 (1263-1342), vốn họ Nguyễn, sau được gửi cho cậu là Lê Bổng làm con nuôi, nên đổi sang họ Lê, tên chữ là Cảnh Cao景高, hiệu là Đông Sơn東山, người Ái Châu (nên còn có hiệu là Cổ Ái古愛). Trắc làm quan dưới triều nhà Trần, phụ tá cho Chương Hiến Hầu Trần Kiện. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2, Thiệu Bảo năm thứ 7 (1285), Trần Kiện đánh thua trận bèn hàng giặc, Trắc đi theo. Trần Kiện bị quan quân đuổi giết, Trắc ôm xác Kiện thoát ra được, từ đó sang Trung Quốc lưu lạc đến hết đời. Trong thời gian ở Trung Quốc, ông góp nhặt tư liệu, cộng với những điều mắt thấy tai nghe, soạn được bộ sách An Nam Chí Lược. Đây là một trong những bộ sử sớm nhất của nước ta còn được lưu truyền đến ngày nay. Sớm hơn, Việt Chí của Trần Phổ đã không còn; cùng đời Trần có Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu, chỉ còn thấy dấu tích trong bộ Đại Việt Sử Kí Toàn Thư sau này mà thôi. Loanh quanh khoảng thời gian ấn hành An Nam Chí Lược (theo Trần Kinh Hòa thì có lẽ là sau năm 1339) có bộ Việt Sử Lược (chưa chắc chắn về tác giả), tuy nhiên Việt Sử Lược khá nhỏ bé nếu so sánh với An Nam Chí Lược.
Lê Trắc chép sử tại Trung Quốc, đứng trên quan điểm của Trung Quốc, An Nam Chí Lược thể hiện rất rõ điều đó. Ông luôn tự cho việc nội phụ nhà Nguyên là việc nghĩa. Trong lời tự sự cuối sách, có biện hộ cho Trần Kiện rằng, Kiện chạy sang hàng nhà Nguyên bởi tính trước nước Việt nhỏ bé không thể thắng, bản thân là tông thất “không nỡ để nước mất, thân vong” nên mới hàng. Thực tế lịch sử rõ ràng là ngược lại, Đại Việt đã thắng trận và vẫn đứng vững. Ta cũng thấy Lê Trắc khi viết về các vị vua Đại Việt gần như không dùng miếu hiệu (như Thái Tổ, Thánh Tông...) mà đổi sang vương (đổi thành Thái Vương, Thánh Vương...), đây là một bước “hạ cấp” từ đế xuống vương, cho hợp với “lễ chư hầu”. Thậm chí có những chỗ chỉ dùng từ “Thế tử” khi vua chưa được nhà Nguyên sắc phong. Trong những đoạn nói về việc quân Nguyên xâm lược Đại Việt, dường như Lê Trắc cũng cố tình giản lược phần thua trận của quân Nguyên đi – ít ra khi so với Đại Việt Sử Kí Toàn Thư thì là thế.
Dẫu vậy, và dù đứng trên quan điểm của Đại Việt, Lê Trắc là một kẻ phản thần, thì cũng không thể phủ nhận giá trị của bộ An Nam Chí Lược. Lê Trắc đã gom góp sử liệu, bao gồm những bộ sử lớn như Sử Kí của Tư Mã Thiên, Hậu Hán Thư, Đường Thư... cho đến sách vở ghi chép của người đương thời, tập hợp lại thành một ghi chép thống nhất về lịch sử nước Việt từ thời Triệu Đà (Lê Trắc cho rằng kỉ Triệu Đà thuộc về sử nước ta) đến gần cuối đời Trần. Không chỉ có lịch sử chính trị, Lê Trắc còn ghi chép sơ lược về địa lí, phong tục tập quán, các lễ nghi của nước ta đời Trần. Phần này là ghi chép của chính Lê Trắc, gần như không có trong các sách sử khác. An Nam Chí Lược cũng là một nguồn sử liệu quan trọng để Lý Văn Phượng viết bộ Việt Kiệu Thư sau này.
![]() |
Sách An Nam Chí Lược của Lê Trắc được Mặc Sinh Lê Huy Hoàng dịch và chú. |
Về tình hình các phiên bản
Bộ sách An Nam Chí Lược hiện còn một số bản khác nhau, rất tiếc đều chỉ là các bản có từ khoảng đời Thanh trở lại đây, không có bản cổ hơn. Tình hình phiên bản của An Nam Chí Lược đã được Vũ Thượng Thanh giới thiệu khá đầy đủ trong bản hiệu điểm của mình.
Vũ bản chủ yếu sử dụng bản khắc hoạt tự của Lạc Thiện Đường ở Thượng Hải xuất bản năm 1884 (gọi tắt là “Lạc bản”), là bản tương đối đầy đủ, ngoài phần chính văn 19 quyển, còn có thêm các đoạn lời tựa và mục lục. Lạc bản còn có một số ít lời phê ở lề trên một số trang (gọi là “mi phê”), của Tiền Đại Hân - nhà sử học nổi tiếng thời Càn Long, Gia Khánh nhà Thanh. Theo lời bạt của Hoàng Phi Liệt trong bản này thì đây là bản chép tay do Viên Thọ Giai tàng trữ, Tiền Đại Hân từng mượn đọc, có hiệu điểm, cú đậu (ngắt câu) và ghi một số lời phê.
Bản An Nam Chí Lược trong Khâm Định Tứ Khố Toàn Thư không có lời tựa, phần chính văn cắt ghép lại thành 20 quyển. Bản in trong Tứ Khố Toàn Thư của Văn Uyên các gọi tắt là “Các bản”. Ngoài ra Vũ bản tham khảo thêm bản in lại của nhà sách Cổ Tịch Thượng Hải năm 1979 (gọi tắt là “Phục bản”).
Bản hiệu điểm của Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam – Viện Đại học Huế in kèm vào cuối bản dịch An Nam Chí Lược xuất bản năm 1961 (gọi tắt là “Việt bản”), vẫn chủ yếu dựa vào Lạc bản làm nền, tham khảo thêm thủ hiệu bản của Tiền Đại Hân thuộc Nội Các văn khố Nhật Bản, Truyền sao bản của Văn Lan các và bản British Museum. Thực tế thì Lạc bản cũng đã chính là một bản thủ hiệu của TIền Đại Hân rồi. Năm 2009, nhà xuất bản Lao Động in lại (có sửa chữa bổ sung) bản dịch này, nhưng rất tiếc phần Hán văn của bản hiệu điểm in sau sách chụp quá mờ, không thể tham khảo; may mắn thay là đến giờ vẫn có thể tiếp cận bản 1961. Điều đáng quý của Việt bản là có in kèm bài khảo cứu về thời gian viết sách và các truyền bản của An Nam Chí Lược, giáo sư Trần liệt kê ra thêm những truyền bản khác, bao gồm:
Mỗi một phiên bản đều có sự khác biệt nhất định về câu chữ, do việc chép lại hoặc san khắc in ấn có sai lầm; hoặc do người chép lại đã cắt gọt bớt (Điển hình là Các bản, một số câu bị mất chữ từ trước, người chép không luận ra, nên đã cắt luôn). Rất may Vũ Thượng Thanh đã làm công việc đối chiếu và hiệu điểm rất công phu, để có một bản tương đối hoàn thiện. Tuy vậy, Vũ bản không hẳn đã hoàn hảo. Đâu đó có những lỗi đọc văn bản dẫn đến ngắt câu sai. Ví dụ trong chế phong Đinh Bộ Lĩnh của Tống Thái Tổ (thu lục trong phần Thư mệnh của tiền triều quyển 2 sách này) có câu được Vũ Thượng Thanh ngắt như sau:
錫乃王列土之封秩,以維師疇之井賦
(Tích nãi vương liệt thổ chi phong trật, dĩ duy sư trù chi tỉnh phú)
Cách ngắt câu này khiến văn nghĩa khó thông, mà ngắt lại thành “tích nãi vương liệt thổ chi phong, trật dĩ duy sư, trù chi tỉnh phú” (ban người cha chức tước một vùng; cho phẩm trật để nuôi quân, cho tích trữ nhờ phú thuế) thì nghĩa thông, mà lại đúng tính chất biền ngẫu hay có trong chiếu chế.
Hoặc lại ví dụ ân chế gia phong Lý Nhật Tôn của Tống Thần Tông thu lục tại phần Tiền triều thư mệnh quyển 2, có một đoạn được Vũ Thượng Thanh ngắt câu như sau:
告於有司,錫是在服。推誠保節,同德守正。順化翊戴功臣、靜海軍節度觀察處置等使、同中書門下平章事李日尊,躬懷德善,世濟忠勤。
(Cáo ư hữu tư, tích thị tại phục. Thôi thành bảo tiết, đồng đức thủ chính. Thuận hóa dực đới công thần, Tĩnh hải quân tiết độ Quan sát xử trí đẳng sứ, đồng Trung thư môn hạ bình chương sự Lý Nhật Tôn, cung hoài đức thiện, thế tế trung cần.)
Như vậy Vũ Thượng Thanh coi “thuận hóa dực đới công thần” là sang câu sau. Nhưng “thôi thành”, “bảo tiết”, “đồng đức”, “thủ chính”, “thuận hóa”, “dực đới” đều là các mĩ hiệu thời Tống ban cho ngoại thần, vì thế từ “thôi thành” đến “công thần” là hiệu của Lý Nhật Tôn.
Về việc dịch thuật
Ở nước ta, An Nam Chí Lược đã được dịch từ năm 1961, đó là bản dịch của Ủy ban Phiên dịch Sử liệu – Viện Đại học Huế, tức là Việt bản đã nhắc bên trên, có giáo sư Trần Kinh Hòa làm cố vấn trực tiếp. Vì thế, bản hiệu điểm in sau sách là tài liệu tham khảo rất quý giá. Tuy nhiên với điều khiện thiếu thốn thời đó, bản dịch năm 1961 không tránh khỏi nhiều sai sót, gồm cả sai sót về mặt ngôn từ và sai sót về mặt lịch sử. Ví dụ trong chiếu dụ Thế tử An Nam năm Chí Nguyên thứ 25 (thu lục trong mục Đại Nguyên chiếu chế ở quyển II sách này) có cụm 唆都根底魯遮當 (Toa Đô căn để lỗ già đương), bản dịch năm 1961 dịch là “sự cản trở tướng Toa Đô và Căn Để Lỗ”, thực tế không có nhân vật nào tên là Căn Để Lỗ” cả, “căn để” là tin tức, câu này nghĩa là “bưng bít chuyện của Toa Đô”. Bởi Toa Đô lúc này đã bị chém, nhưng người Nguyên không biết, nghĩ là vẫn đang bị bắt nên đòi nước ta trả lại.
Hoặc vẫn bài chiếu dụ này có câu 爾知悉戾機,忝為族類,以禮遣還。(Nhĩ tri Tất Lệ Cơ, thiểm vi tộc loại, dĩ lễ khiển hoàn), Tất Lệ Cơ là tên người (trong sách đã có chú thích), bản dịch cũ lại ngắt thành “tri tất/ lệ cơ”, mà dịch là “nếu khanh biết rõ nguy cơ mà thần phục”, cũng vì thế nên không dịch được chữ “thiểm” đằng sau, mà biến thành nghĩa khác hẳn câu gốc: “thì nên vì tộc loại dùng lễ nghi mà đưa về”. Chữ “thiểm” này nghĩa là hổ thẹn, “thiểm vi tộc loại” là nói Tất Lệ Cơ được trộm dự vào tông thất nhà Nguyên.
Cũng có chỗ sai sót bắt đầu từ bản hiệu điểm của Trần Kinh Hòa. Quyển 10 (ki thần các đời) phần nói về Tông Tấn Khanh, bản dịch cũ như sau: "Tấn-Khanh cùng quân Vũ-Lâm xây cất dinh-thự cho Sở-Khách, quá nỗi xa hoa, bị lỗi, phải đày đi Phong-Châu." E rằng sai về lịch sử.
Bản dịch cũ dùng theo bản hiệu điểm của Trần Kinh Hòa, câu gốc trong bản đó như sau:
晉卿與羽林兵作楚客營第,僭侈過度,流峰州。
Bản dịch cũ đã dịch đúng câu này nếu xét về mặt văn bản. Nhưng thực chất câu này bị chép sai. Nên kiểm tra lại trong Tân Đường Thư, vì câu này về cơ bản là chép (rút gọn) lại của Tân Đường Thư. Tân Đường Thư quyển 109, chép về Tông Sở Khách (anh của Tấn Khanh):
兄秦客,垂拱中,勸武後革命,進為內史,而弟晉卿典羽林兵。後兄弟並坐奸贓流嶺外。歲餘,秦客死,而楚客等還。俄檢校夏官侍郎、同鳳閣鸞臺平章事。與武懿宗不協,會賜將作材營第,僭侈過度,為懿宗所劾,自文昌左丞貶播州司馬,晉卿流峰州。
Anh (của Sở Khách) là Tần Khách, khoảng những năm Thùy Củng, khuyên Võ hậu cách mệnh (ý nói thay nhà Đường mà lên ngôi), được làm nội sử, còn em là Tấn Khanh thì chưởng quản quân Vũ Lâm. Sau đó anh em đều vì gian tang mà bị lưu đày ra lĩnh ngoại. Hơn năm sau, Tần Khách chết, còn bọn Sở Khách được về. Sau đó không lâu được làm chức Kiểm hiệu Hạ quan thị lang, đồng Phượng các Oanh đài Bình chương sự. Có bất hòa với Võ Ý Tông, gặp lúc được ban cho nguyên vật liệu của Tương Tác giám lấy xây phủ đệ, xa xỉ tiếm vượt quá độ, bị Ý Tông đàn hặc, bị giáng xuống chức Văn Xương tả thừa, rồi lại biếm đi làm tư mã ở Bá Châu, Tấn Khanh bị lưu đày đi Phong Châu.
Nói ngắn gọn thì là: Tấn Khanh sau "cách mệnh" được chưởng quản quân Vũ Lâm. Còn chuyện Sở Khách dùng nguyên vật liệu của Tương Tác giám xây dựng phủ đệ là chuyện sau này. Hoàn toàn không có đoạn nào nói Tấn Khanh đem quân Vũ Lâm đi xây phủ đệ cho Sở Khách. Ở đây rõ ràng bản hiệu điểm vẫn có nhầm lẫn về chữ, quan trọng nhất là chữ "điển"典 nhầm sang "dữ"與, vì thế “Tấn Khanh điển Vũ Lâm binh" (câu gốc từ Tân Đường Thư - tức là Tấn Khanh chưởng quản quân Vũ Lâm) bị biến thành "Tấn Khanh dữ Vũ Lâm binh" (Tấn Khanh cùng quân Vũ Lâm). Sau đó chữ "tọa" (liên từ chỉ quan hệ nhân quả) bị đổi sang "tác", thế là mới thành Tấn Khanh cùng quân Vũ Lâm đi xây nhà. Câu đó nếu chép theo bản Tứ Khố Toàn Thư thì lại không vấn đề gì:
晉卿典羽林兵。坐楚客營第僭侈過度,流峰州。
(Tấn Khanh chưởng quản quân Vũ Lâm. Vì phủ đệ của Sở Khách xa hoa tiếm vượt quá độ nên bị lưu đày đi Phong Châu)
Những chỗ sai sót như vậy trong bản dịch cũ, e rằng không ít. Việc dịch lại để chỉnh sửa những thiếu sót trên, thiết nghĩ là công việc nên làm.
Về cơ bản thì Việt bản và Vũ bản đều lấy Lạc bản làm bản nền, còn việc tham khảo thêm những truyền bản khác dường như là chưa đủ để có một bản thật hoàn chỉnh, nên các soạn giả của cả hai bản trên đều đã dày công tra cứu thêm nhiều sách khác để cho ra bản hiệu điểm tương đối tốt. Chỉ có điều bản dịch Việt bản có nhiều sai sót, còn Vũ bản thì không có bản dịch. An Nam chí lược bản dịch mới được căn cứ vào hai bản trên để dịch, tuy nhiên lấy Vũ bản làm nền, vì một số lí do:
Vũ bản được in ấn rõ ràng, còn phần hiệu điểm trong Việt bản chỉ được in kèm cuối sách, chữ nhỏ, dễ đọc nhầm, không có mục lục nên khó theo dõi;
Vũ bản có phần cước chú phong phú hơn, nói rõ những chỗ nào sửa, tham khảo từ đâu... Việt bản tuy cũng có cước chú những chỗ sửa, nhưng nhiều đoạn chú thích không nói rõ lí do sửa. Vũ bản lại có gạch chân dưới các từ là tên riêng, tương đối dễ đọc vào mạch văn, mặc dù đôi chỗ không chính xác lắm, do in ấn hoặc do bản thân Vũ Thượng Thanh có thiếu sót.
Vũ bản là tương đối đủ tốt để làm nền, nhưng để có được một bản dịch An Nam chí lược chất lượng, dịch giả vẫn phải tham khảo thêm nhiều sách khác, ngoài những bản An Nam Chí Lược khác, còn có các sách sử như Sử Kí, Hậu Hán Thư, Tân Cựu Đường Thư, Tống Sử, Nguyên Sử, Đại Việt Sử Kí Toàn Thư..., các sách tạp kí, thơ ca như Trần Cương Trung thi tập, cho đến cả bài nghiên cứu của học giả thời nay. Lí do phải tham khảo thêm là vừa để kiểm chứng những chỗ văn nghĩa kém thông suốt của Vũ bản, vừa để tra lại tư liệu lịch sử, để đính chính hoặc có những chú thích thêm.