Sáng tác

Lời tiên tri. Truyện ngắn của Cầm Sơn

Cầm Sơn
Truyện 09:54 | 05/11/2025
Baovannghe.vn- Một ngày đẹp trời vào năm Nhâm Dần, niên hiệu Quảng Hòa thứ hai đời vua Mạc Hiến Tông (1542), quan Tả Thị lang bộ Lại Nguyễn Bỉnh Khiêm đến nhà quan Tham tri bộ Lễ Nguyễn Thiến chào để về quê.
aa
Lời tiên tri. Truyện ngắn của Cầm Sơn
Minh hoạ: Nguyễn Huy lộc

Ở đây đã có quan Tư đồ Nguyễn Như Độ chờ đón ông. Quan Tư đồ Nguyễn Như Độ và Tham tri Nguyễn Thiến vốn cùng tuổi, lúc nhỏ cùng học thầy là Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng - bác ruột Nguyễn Thiến. Năm hai ông mười ba tuổi, Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng mất, hai ông tìm vào tận làng Lạch Triều đất Thanh Hoa học thầy Bảng nhãn Lương Đắc Bằng.

Một ngày đẹp trời vào năm Nhâm Dần, niên hiệu Quảng Hòa thứ hai đời vua Mạc Hiến Tông (1542), quan Tả Thị lang bộ Lại Nguyễn Bỉnh Khiêm đến nhà quan Tham tri bộ Lễ Nguyễn Thiến chào để về quê. Ở đây đã có quan Tư đồ Nguyễn Như Độ chờ đón ông. Quan Tư đồ Nguyễn Như Độ và Tham tri Nguyễn Thiến vốn cùng tuổi, lúc nhỏ cùng học thầy là Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng - bác ruột Nguyễn Thiến. Năm hai ông mười ba tuổi, Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng mất, hai ông tìm vào tận làng Lạch Triều đất Thanh Hoa học thầy Bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Tại nhà thầy, hai ông gặp Nguyễn Bỉnh Khiêm, tuy hơn hai ông bốn tuổi nhưng cũng là học trò của Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, ba ông là bạn đồng môn. Các thầy dạy đều là quan lại thời Lê sơ về trí sĩ nên ảnh hưởng tư tưởng “Phò Lê”, phần lớn học trò của thầy không tham dự các kì thi do nhà Mạc tổ chức.

Về sau, đời vua Mạc Thái Tông có nhiều cải cách tiến bộ, đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp đã chú ý ưu tiên “Binh điền” chia ruộng cho binh sĩ, đất công được chia bình đẳng không phân biệt quan dân, giàu nghèo, tình hình an ninh được củng cố, đất nước yên ổn, mùa màng tươi tốt bội thu, người dân sống trong cảnh ấm no, không lo trộm cướp, đúc tiền Đại Chính thông bảo mở rộng giao thương, trọng nhân tài, mở nhiều khoa thi để tìm ra người hiền đức, được nhân dân ca tụng là thời kì “Thái bình thịnh trị” nên thầy Lương Đắc Bằng lại khuyên học trò xuất thân cống hiến cho xã tắc. Nguyễn Thiến tham gia ứng thí khoa niên hiệu Đại Chính thứ ba (1532) còn Nguyễn Bỉnh Khiêm tham gia khoa niên hiệu Đại Chính thứ sáu (1535) đời vua Thái Tông Mạc Đăng Doanh, cả hai ông đều giật giải Nguyên. Duy có Nguyễn Như Độ chỉ đỗ Thái học sinh ở kì thi Hội không tham gia khoa thi Đình nào nhưng ông được cha đẻ là Thượng thư Bộ Lễ Nguyễn Thanh bố trí vào chốn quan trường từ rất sớm nên đến đời Nguyễn Phúc Hải lên làm vua thì ông đã ở chức Đại Tư đồ Thái bảo, coi việc đất đai và sản xuất nông nghiệp.

Tại nhà Nguyễn Thiến, Nguyễn Như Độ hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm:

- Đệ vẫn chưa hiểu vì sao quan bác đang được triều đình trọng dụng, có lí do gì để xin thoái quan về quê?

Nguyễn Thiến tiếp lời:

- Cả triều chính, trên là Mạc Hiến Tông dưới là các đại thần kể cả sủng thần Phạm Quỳnh cũng đều tôn kính bác, vậy mà bác nỡ bỏ ra về. Đệ cũng thấy thắc mắc.

Sau khi nhấp một chén trà, Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa mắt ra hiệu, Nguyễn Thiến hiểu ý cho tất cả gia nhân lui ra ngoài. Nguyễn Bỉnh Khiêm mới nhỏ giọng nói với hai ông:

- Các ông là bạn đồng môn tâm giao nên cũng cần bộc bạch ý của tôi, các ông hiểu thế nào cũng được. Kể từ khi Mạc Thái Tông băng hà, hai năm trở lại đây, Mạc Hiến Tông còn nhỏ tuổi chưa điều hành được triều chính, bên cạnh có sủng thần Phạm Quỳnh cậy thế là người thân tín đã cùng bọn Phạm Dao, Nguyễn Văn Thái, Phạm Văn Trị chuyên quyền không tôn trọng quốc pháp. Quần thần chia rẽ kết bè kéo mảng, không có người đủ tài đức để tập hợp. Tôi đã dâng mật sớ trị tội mười tám lộng thần trong đó có cả Phạm Dao là con rể tôi đang giữ Tổng Trấn Sơn Nam. Vua nhận sớ nhưng không động tĩnh gì. Tôi làm quan ở bộ Lại giúp vua dùng người mà không giúp được thì tốt nhất là thoái quan, về quê mở trường dạy học.

Cuộc nói chuyện trở nên trầm xuống nhưng lại có vẻ thân tình hơn:

- Quan bác cũng không nên hà khắc với chính mình quá, việc dùng người là việc hệ trọng và là quyền của vua, mình làm hết phận sự là có thể bằng lòng được rồi.

- Tuy Nhà Lê mục ruỗng, đã đến hồi suy vong, dân tình oán thán nhưng hành động cướp ngôi của Nhà Mạc vẫn làm cho lòng dân bất phục. Quan quân, sĩ phu vẫn còn nhiều người hướng về tư tưởng “Phù Lê diệt Mạc”. Phải công nhận Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông đã hết lòng vì dân vì nước, có nhiều cải cách trấn an lòng dân, nhưng khi Mạc Thái Tông băng hà, Mạc Thái Tổ đã sai lầm trao quyền bính vào vị vua còn quá nhỏ tuổi, bản thân Thái Thượng Hoàng thì tuổi cao không trông coi được chính sự, lại không có người làm phụ chính cho nhi vương xứng tầm. Trong khi đó nhà Lê đã được các tướng lĩnh giỏi giang, tâm huyết phò tá lập lại nghiệp trên đất Sầm Châu bên Ai Lao. Tôi xem vận số thấy đã đến thời kì nhà Lê phục hưng khởi sắc, nhà Mạc bắt đầu suy vi, lâu cũng chỉ năm mươi năm nữa giang sơn sẽ trả lại về tay nhà Lê. Tôi có ở lại Triều đình cũng không giúp được gì cho dân cho nước vì nhà vua đã bị bọn gian thần, nịnh thần làm mờ mắt, thao túng. Tôi về mở trường học truyền dạy tư tưởng của mình cho đời sau còn có ích, vả lại cũng để tránh được cái họa diệt thân. Các ông ở lại triều chính, tuy công việc ít động chạm đến con người, ít bị thù hận, ghen ghét nhưng tôi xin có một lời là các ông vẫn phải cẩn trọng giữ mình!

Nguyễn Bỉnh Khiêm tạ từ về rồi, Nguyễn Thiến nói với Nguyễn Như Độ:

- Bác ấy thận trọng có thừa, triều đình còn có bao nhiêu quần thần chứ đâu chỉ có vài người lộng thần, mà họ cũng là đại quan, họ cũng phải lo cái lo của triều chính chứ!

- Các bác học cao, chữ rộng, có chính kiến riêng, lời các bác tôi đều tôn trọng lắng nghe!

- Công nhận là bác ấy có nhiều dự đoán khá chuẩn xác, nhưng để dự báo cả một khoảng thời gian dài thì chưa chắc đúng. Khó có chuyện Nhà Lê lấy lại được giang sơn!

- Thôi, cứ để rồi xem sao! Tôi cũng xin phép bác được cáo lui!

*

Thái Hoàng Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn là Hoàng hậu từ thời Mạc Thái Tổ thường tổ chức các chuyến thiện du cùng một vài phu nhân các quan đại thần triều đình gom góp tiền của cá nhân mang về các miền quê ủng hộ địa phương sửa chữa cầu cống, tu bổ miếu mạo hoặc mua ruộng cho nhà chùa. Chuyến đi lần này nhằm vào tháng tám năm Quảng Hòa thứ sáu đời Hiến Tông Mạc Phúc Hải (1545) về làng Chè thuộc huyện Nghi Dương phủ Kinh Môn, là quê hương sinh ra Thái hậu và làng Trung An huyện Vĩnh Lạc phủ Hạ Hồng thuộc trấn Hải Dương là quê quan Thượng thư bộ Lại mới được Mạc Hiến Tông bổ nhiệm Nguyễn Bỉnh Khiêm và hiện tại ông đang ngụ cư ở đó. Tháp tùng bà trong chuyến đi này có một số phu nhân của các quan đại thần triều đình, trong đó có bà Lê Thị Từ Thục, phu nhân quan Tư đồ Nguyễn Như Độ. Kết thúc chuyến đi, về nhà bà Lê Thị Từ Thục nói với chồng:

- Thiếp cùng Thái Hoàng Thái hậu rẽ vào tư gia thăm quan bác Nguyễn Bỉnh Khiêm, quan bác có hỏi đến Nguyễn Minh Dương nhà ta sao rồi? Thiếp nói: Nguyễn Minh Dương vẫn chỉ là Hội nguyên, tướng công nhà muội không cho tham gia thi Đình khoa Giáp Thìn, giờ vẫn chỉ là chân thư lại ở Hiến sát sứ ty.

- Vậy quan bác có nói gì không?

- Bác ấy nói: Thế là tốt rồi! Bảo cháu cứ yên phận cúc cung làm việc tận tụy với địa vị ấy, thư lại thì chỉ là giúp việc không phải là quan! Thiếp không rõ lắm, bác Nguyễn Bỉnh Khiêm trước dạy cậu ấy bên nhà bác Nguyễn Thiến cũng bảo Nguyễn Minh Dương nhà ta thông minh, học đâu nhớ đấy, tại làm sao cả bác ấy và cả tướng công lại cản không cho ứng thí khoa Giáp Thìn vừa rồi?

- Cái này bác ấy đã nói với tôi rất kĩ. Mấy năm trước tôi gửi cậu ấy về quê là có ý để rồi ở quê luôn làm ông đồ gõ đầu trẻ nhưng vì bà không bằng lòng nên tôi đành xếp cho cậu ấy vào làm thư lại ở Hiến sát sứ. Bác Khiêm còn nói rõ về nhân tướng của Nguyễn Minh Dương, trán cao, lông mày xanh, đôi mắt sáng đôi khi long lanh rực rỡ, tướng ấy nếu theo con đường khoa bảng sẽ đỗ đạt cao nhưng nhân tướng và khí tinh cũng có đôi chút không thuận, tốt nhất là làm dân thường kinh doanh kiếm sống, còn vào chốn quan trường thì tuyệt đối không nên!

- Thiếp không tin những lời bói toán vớ vẩn ấy!

- Là bạn đồng môn tâm giao với tôi thì bác ấy mới bộc bạch chi tiết đến thế. Bác ấy không phải là thầy bói nhưng bác ấy trên thông thiên văn, dưới tường địa lí, tử vi, độn số, nhân tướng học cái gì cũng thông thạo. Bác ấy không nói thì thôi chứ đã nói là không có sai đâu!

- Chả biết sai đúng thế nào, nhưng thiếp thấy tướng công cứ tin vào lời bác ấy là báo hại cậu út nhà mình cái đã!

Bảy năm trước, khi Nguyễn Minh Dương mười bảy tuổi, bà Lê Thị Tư Thục nói với chồng:

- Cậu Nguyễn Minh Dương giờ đã lớn, phải lo lập thất cho cậu ấy. Thiếp có ý nhờ Vũ Thái hậu làm hôn mối và Thái hậu đã vui vẻ nhận lời. Vậy ý tướng công thế nào?

Tư đồ Nguyễn Như Độ giật mình, sau một khoảng lặng, ông trầm ngâm trả lời vợ:

- Đúng là cậu ấy đã đến tuổi lập thất nhưng việc ấy bà để tôi lo, không cần nhờ vả ai cả. Thứ nhất là bị mang tiếng bợ đỡ hoàng thất, thứ hai là có khi thông gia không hợp với ý mình. Tôi là hàm quan nhất phẩm Triều đình không lo nổi vợ cho con hay sao?

- Vâng! Là cậu út nhà mình đã lớn tuổi mà không thấy tướng công động tĩnh gì thì thiếp sốt ruột thôi!

Thế là Nguyễn Minh Dương được đưa về quê ngoại làng Hoa Cầu phủ Tế Tiêu thuộc trấn Kinh Bắc theo học thầy đồ Phó bảng Lê Kính Công là anh em họ hàng với bà Lê Thị Từ Thục. Thực ra đấy là kế hoạch của Tư đồ Nguyễn Như Độ, ông đã bí mật trao đổi với Phó bảng Lê Kính Công ghép đôi cho Nguyễn Minh Dương với con gái Lê Kính Công. Việc này hai ông không nói cho bà Lê Thị Từ Thục biết. Lúc ấy cô con gái Phó bảng Lê Kính Công mới mười bốn tuổi nên đợi đến hai năm sau, khi đôi trẻ thường ngày ở với nhau cũng đã quen hơi bén tiếng, hai ông mới chính thức đặt vấn đề về hôn lễ. Lúc này dẫu bà Lê Thị Từ Thục không vừa ý nhưng cũng không dám nói năng gì. Có điều sau lễ thành hôn cho hai trẻ bà nhất quyết kéo bằng được vợ chồng Nguyễn Minh Dương trở lại Thăng Long chứ không được ở lại quê làm thầy đồ dạy học theo ý chồng. Khi người đàn bà họ đã buộc phải vượt ra khỏi khuôn phép lễ nghi thì người đàn ông phải xuống nước để giữ êm hòa khí gia đình, Tư đồ Nguyễn Như Độ nghĩ như vậy nên ông đành phải chiều lòng vợ và Nguyễn Minh Dương được đưa vào làm thư lại ở Hiến sát sứ ty, một cơ quan ở hàng trấn chứ không phải ở Triều đình.

*

Năm 1546 Hiến Tông Mạc Phúc Hải băng hà, đại thần là Phạm Tử Nghi bàn “Trong lúc đất nước còn loạn lạc, nên lập Mạc Chính Trung lớn tuổi lên làm vua” nhưng các đại thần tôn thất nhà Mạc không nghe mà lập Mạc Phúc Nguyên là con trưởng Mạc Phúc Hải khi ấy mới tám tuổi lên ngôi, lấy vương hiệu Mạc Tuyên Tông. Phạm Tử Nghi cùng Mạc Chính Trung làm phản, phụ chính nhà vua là Khiêm vương Mạc Kính Điển cùng đại tướng Lê Bá Ly ra tay dẹp loạn, bắt sống và chém đầu Phạm Tử Nghi buộc Mạc Chính Trung phải chạy lưu vong sang Trung Quốc. Với công lao to lớn ấy, năm 1949 vua Mạc Tuyên Tông phong cho Lê Bá Ly chức Thái Tể tước Nam Đạo Phụng Quốc Công, hàm nhất phẩm. Cùng năm đó Tham tri Nguyễn Thiến là thông gia với Thái tể Lê Bá Ly cũng được điều chuyển từ Bộ Lễ sang Bộ Lại giữ chức Thượng thư.

Năm Cảnh lịch thứ 3 (1550) đời vua Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên, do thấy triều chính đã ổn định, phụ chính Khiêm vương Mạc Kính Điển sai Tư đồ Nguyễn Như Độ đi kiểm tra, thúc giục thu quân lương và lập kế hoạch chuẩn bị cho chiến tranh. Việc hệ trọng nên Đại Tư đồ Nguyễn Như Độ xuống các trấn dòng dã mấy tháng trời. Trong khi chồng vắng nhà, bà Lê Thị Từ Thục chỉ đạo Nguyễn Minh Dương tập trung ôn luyện và đăng kí ứng thí khoa thi Đình năm Canh Tuất. Khoa thi năm ấy có ba người đỗ Tam khôi được xướng danh là Trần Văn Bảo sinh năm 1524 tại làng Cổ Chử, huyện Giao Thủy, phủ Thiên Trường, trấn Sơn Nam Hạ đỗ Nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (Trạng nguyên), người thứ hai là Trần Văn sinh năm 1518 tại xã Phan Xá huyện Phù Dung phủ Khoái Châu trấn Sơn Nam Thượng đỗ Nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh (Bảng nhãn) và người thứ ba là Nguyễn Minh Dương sinh năm 1522 người xã Nghĩa Trai huyện Gia Lâm phủ Thuận An trấn Kinh Bắc đỗ Nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa), 4 người đỗ Nhị giáp tiến sĩ xuất thân và 18 người đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

Khi Tư đồ Nguyễn Như Độ đi công cán về thì mọi sự đã đâu vào đấy. Ông lặng người nhưng không nói gì. Trong thâm tâm ông nghĩ: Con người ta đều có vận số, cũng có thể “Nhân định thắng Thiên” nhưng phần đa là không cưỡng lại được với số trời, thôi thì đành phó mặc xem vận số đưa đẩy đến đâu. Vì vậy ông không rầy la ca thán gì nhưng cũng không quan tâm đến sự kiện đỗ đạt của Nguyễn Minh Dương. Riêng bà Lê Thị Từ Thục thì vui mừng ra mặt, bà bàn với chồng:

- Tuy chưa đạt đến Trạng nguyên nhưng cậu Nguyễn Minh Dương nhà mình cũng vào hàng tam khôi. Trạng nguyên được Bộ Lễ cho “Vinh quy bái Tổ” thì mình cũng phải bỏ tiền ra cho con về quê quy bái Tổ tiên khao lạo họ hàng, làng xóm mới phải.

- Bà vui mừng thì về quê mà làm, tôi không dây với mẹ con bà!

- Ơ hay! Chả vui mừng thì sao?

- Thôi! Việc bà đã làm rồi thì giờ thích làm gì cứ làm!

Tuy ấm ức nhưng bà Từ Thục cũng không dám làm gì thêm để phật ý chồng. Còn Đại Tư đồ Nguyễn Như Độ thì lặng lẽ sang nhà bạn đồng môn Nguyễn Thiến giờ làm Thượng thư Bộ Lại lo việc sắp xếp quan trường.

- Cậu Nguyễn Minh Dương nhà tôi tuy đậu Thám hoa nhưng xin bác đừng cất nhắc bổ nhiệm vào chức quan nào trong Triều.

- Không được, đã ứng thí Đình khoa là để ra làm quan giúp đỡ Triều đình, kể cả hàng Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân Bộ chúng tôi cũng đều phải trình vua bổ nhiệm vị trí phù hợp chứ đừng nói hàng Nhất giáp tam khôi, tôi bẩm báo với nhà vua sao đây, qua làm sao được mặt vua?

- Bác cứ bẩm với nhà vua là cậu ấy sức khỏe không tốt, đang phải trị bệnh, đợi một thời gian nữa sẽ cất nhắc, bổ nhiệm sau! Nếu bác thấy khó quá thì để tôi dâng sớ trình thẳng lên nhà vua vậy!

- Người ta lo chạy chọt để được thăng quan, tiến chức, còn bác thì lại không muốn thăng quan cho con mình là làm sao?

- Hồi bác Khiêm còn tá túc dạy học bên nhà bác, cậu Nguyễn Minh Dương nhà tôi cũng theo học ở đây, tôi được bác Khiêm nói cho hay về nhân tướng, lí số của cậu ấy không nên tham gia vào chốn quan trường, sẽ gặp cái họa binh đao.

- Bác không nên quá lệ thuộc vào những lời tiên đoán của bác Khiêm mà cản trở con đường công danh của con cái. Thôi được, tạm thời để rồi tôi sẽ lựa theo ý bác!

Vậy là việc bổ nhiệm các chức quan cho tiến sĩ khoa thi năm ấy có khá nhiều chênh lệch. Trạng nguyên Trần Văn Bảo được bổ làm Đông các hiệu thư sau này ông làm đến chức Thượng thư Bộ Lại, Ngô Diễn chỉ đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân cũng được bổ làm Đô cấp sự trung sau cũng làm quan đến chức Thượng thư. Duy chỉ có Thám hoa Nguyễn Minh Dương chỉ được thăng cấp làm Hiến sát sứ trưởng quan trấn Đô thành chứ không phải chức quan ở Triều đình nhưng vẫn được phong tước Bá - Phong Khê Bá.

*

Lại nói đến sủng thần Phạm Quỳnh, Phạm Quỳnh trước là dân thường làm đày tớ sai dịch trong phủ tướng công Lê Bá Ly. Thời vua Thái Tông Mạc Đăng Doanh có người con thứ ba là Mạc Kính Điển, em Mạc Phúc Hải lúc còn nhỏ ốm đau, sài đẹn không thuốc nào chữa khỏi. Nhằm khi vợ Phạm Quỳnh mới sinh đang có sữa, Lê Bá Ly sai đưa vợ Phạm Quỳnh vào làm nhũ mẫu, không rõ nguyên nhân vì sao từ khi vợ Phạm Quỳnh làm nhũ mẫu thì Mạc Kính Điển khỏe dần rồi hết bệnh. Từ đấy cha con Phạm Quỳnh trở thành ân tình, ân nghĩa với hoàng tộc được cất nhắc, trọng dụng, dần dần trở thành đại thần được sủng ái trong Triều. Đặc biệt đến thời Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên do vua còn nhỏ, mọi việc trong Triều đều một tay Phụ chính Mạc Kính Điển nắm giữ. Phạm Quỳnh cậy có ân nghĩa với Mạc Kính Điển nên tha hồ lộng hành vùng vẫy. Thấy Tể tướng Lê Bá Ly có nhiều công trạng được tin dùng, Phạm Quỳnh đem lòng ghen ghét dèm pha tâu với Mạc Kính Điển:

- Lê Bá Ly quê ở Thanh Hoa là tông thất nhà Lê, nay được Chúa thượng trọng dụng lộng hành, nếu không trừ đi sớm e đến khi ông ta phản trắc thì mối nguy không nhỏ!

Mạc Kính Điển cảm thấy bất ngờ khi nghe Phạm Quỳnh tấu bèn lớn tiếng trách Phạm Quỳnh:

- Binh lực Quốc gia trông cậy vào Tể phụ, công lao như núi cao, biển rộng. Ông đã làm được gì cho xã tắc mà dám nói những lời như vậy!

Bị Mạc Kính Điển mắng, Phạm Quỳnh càng cay cú. Tháng 2 năm 1551, lợi dụng lúc Mạc Kính Điển đi vắng, Phạm Quỳnh lại đem lời dèm pha với Tuyên Tông, lúc này Mạc Phúc Nguyên mới 13 tuổi chưa hiểu chính sự, tin theo lời Phạm Quỳnh. Phạm Quỳnh tự ý đem quân vây hãm biệt phủ Mai Hoa của Thái tể Lê Bá Ly và cả biệt phủ của Lại Bộ Thượng thư Nguyễn Thiến nhằm bắt hai ông. Nhưng do không phải là người làm tướng, không hiểu nổi những việc to lớn ấy cần phải hết sức chặt chẽ nên không điều tra kĩ, khi đưa quân tràn vào biệt phủ tư dinh thì cả hai ông đều không có nhà. Thái tể Lê Bá Ly ở trong Quân doanh còn Thượng thư Nguyễn Thiến đang có cuộc họp trong Triều. Trong khi quân của Phạm Quỳnh còn đang lục soát dinh thự thì một người đày tớ ở phủ Lê Bá Ly tên là Đỗ Mẫn lẻn được ra ngoài chạy đến báo cho chủ soái. Lê Bá Ly bèn cấp báo cho con trai, con nuôi, con rể đều là tướng cầm quân ở quanh kinh thành, đặc biệt con rể Nguyễn Quyện con Nguyễn Thiến là chỉ huy Cấm vệ kéo hơn ba ngàn quân đến cứu viện. Phạm Quỳnh, Phạm Dao làm sao đối địch nổi với lực lượng tinh nhuệ đó bèn tháo chạy, rước Mạc Phúc Nguyên sang bên kia sông Nhị đóng trại ở bãi Bồ Đề. Mạc Phúc Nguyên sai sứ mang thư đến yêu cầu Lê Bá Ly bãi binh, Lê Bá Ly nhờ sứ thần của vua về trình bẩm là mình không hề có ý định gì nhưng nhà vua đã nghe lời dèm pha của gian thần nên phải giao nộp cha con Phạm Quỳnh, Phạm Dao trấn an binh sĩ thì ông sẽ bãi binh, tiếp tục phụng sự Triều đình. Tất nhiên là Mạc Phúc Nguyên không thể thực hiện theo lời Lê Bá Ly được vì quân binh phò vua lúc này đều do Phạm Quỳnh thống lĩnh.

Lê Bá Ly rút quân về kinh đô họp bàn với các tướng lĩnh về phương án đối phó. Thượng thư Nguyễn Thiến có lời trước tiên:

- Trước khi Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm rời kinh đô về quê có nói với tôi: “Giống mùa này không tốt, tìm giống cũ mà gieo.” Hàm ý của ông khuyên tôi quay trở về với nhà Lê. Giờ đã đến nước này thì đúng là chỉ còn có con đường ấy vậy!

Tiếp theo Thái tể Lê Bá Ly nói:

- Ta đã dốc hết lòng hết sức ra cống hiến, phò tá giữ yên bờ cõi cho mấy đời vua Nhà Mạc. Nay nhi vương u tối nghe lời gian thần xiểm nịnh, bạc đãi và có ý định hãm hại trọng thần, làm sao mà ta tiếp tục phò tá kẻ bất nhân, bất nghĩa ấy nữa. Ta quyết định rút binh sang phục vụ dưới trướng Nhà Lê, các tướng nghĩ sao?

Tất cả tướng lĩnh đồng thanh xin theo. Vậy là Thái tể Lê Bá Ly cùng Thượng thư Nguyễn Thiến và nhiều kiệt tướng như Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn, Lê Khắc Thận… kéo theo một vạn bốn ngàn tinh binh hành quân vào Thanh Hoa trở về với Nhà Lê - Trịnh.

Tư đồ Nguyễn Như Độ tháp tùng Khiêm vương Mạc Kính Điển đi kiểm tra quân lương dưới các trấn trở về, thấy tình hình biến cố như vậy bèn dâng sớ xin cáo lão về hưu, năm ấy ông vào tuổi 57. Sau khi được nghỉ, ông dời kinh thành về quê lập trang ấp ở quê vợ làng Hoa Cầu. Bà Lê Thị Từ Thục không đồng tình nên đã có cuộc đối ngôn khá quyết liệt:

- Nhà ta từ đời cụ Tổ đến đời tướng công là ba đời làm quan ở kinh thành quen rồi, giờ về quê thì biết làm gì, hàng xóm toàn nông dân ở ngoài đồng tối ngày làm gì có bạn bè mà giao du.

- Thì tôi đã chọn làng Hoa Cầu quê bà, trước mắt có ông thông gia bạn đồng khoa cũng là Phó Bảng đầy chữ nghĩa văn chương, có khi còn tinh tường hơn tôi là đằng khác. Mấy lại về làm dân thì mình phải là nông dân chứ có sao đâu.

- Đang là quan hàm nhất phẩm Triều đình, về làm dân thường không dễ đâu!

- Bà nói đùa! Bác Nguyễn Bỉnh Khiêm về quê vẫn được Triều đình tiếp tục thăng chức lên đến tận Thượng thư tước Trình Quốc Công thuộc hàm nhất phẩm, hiện vẫn đương chức mà bác ấy còn sống được với nông dân không muốn về Triều huống chi giờ mình đã là dân. Để trang ấp ổn định, tôi sẽ yêu cầu cậu Nguyễn Minh Dương từ chức về quê nốt tôi mới yên tâm.

- Không ai gàn dở như tướng công. Ông về thì cứ về, để cho mẹ con thiếp được yên!

- Ngày trước bác Nguyễn Bỉnh Khiêm trước khi về có nói với tôi và bác Nguyễn Thiến là phải giữ mình cẩn thận. Nhà Mạc sẽ suy vi còn giang sơn sẽ lại trả về cho Nhà Lê. Cứ nhìn thời cuộc cũng đã thấy, từ khi trụ cột Quốc gia Thái tể Lê Bá Ly chạy sang nhà Lê, bao nhiêu danh tướng cũng đang tiếp tục bỏ nhà Mạc. Tiên đoán của bác Khiêm đối với bác Nguyễn Thiến đã ứng nghiệm. Tôi mà còn ở trong triều thì rồi cũng khó tránh khỏi bị bọn gian thần dèm pha, bác Nguyễn Thiến còn có con cái nắm binh quyền chứ tôi thì chưa chắc đã thoát khỏi cái họa diệt thân. Thôi thì học bác Khiêm về quê cho lành!

Phản đối chồng như vậy nhưng khi Đại Tư đồ Nguyễn Như Độ về trang ấp ở quê, bà Lê Thị Từ Thục cũng theo ông về, chỉ không đồng ý cho Nguyễn Minh Dương từ quan và vẫn ở lại kinh đô làm Hiến sát sứ trấn đô thành.

Công việc của Hiến sát sứ ở trấn là điều tra, đàn hặc lấy cung, lập hồ sơ các vụ án để chuyển sang Thừa chính sứ ty xét xử. Ở cấp độ trấn, chủ yếu là các vụ án xảy ra ở chốn lê dân, không mấy khi động chạm đến quan chức nên cũng có phần yên ổn, không phức tạp như ở Triều đình. Tuy vậy, là hàng trấn nhưng lại ở kinh đô nên đôi khi cũng động chạm đến người nhà của các quan lại trong Triều. Cũng có những vụ người nhà của quan cấp cao trong Triều đến nhờ làm sai lệch hồ sơ nhưng Nguyễn Minh Dương chỉ có thể giúp làm nhẹ bớt tội chứ chưa bao giờ để cho can phạm thoát tội. Một trong những vụ án khó xử nhất đối với Hiến sát sứ Nguyễn Minh Dương là nghi can Phạm Ngãi cháu họ gọi Phạm Dao bằng bác. Thanh niên này cậy là con nhà gia thế kéo theo một đám đàn em côn đồ làm nhiều điều ngang ngược ở chốn đô thành. Một lần hắn uống rượu ngà ngà đòi cưỡng hiếp con gái chủ quán rượu, bị chống đối quyết liệt, hắn đã dùng đao đâm chết cả hai bố con rồi cùng mấy đệ tử thản nhiên bỏ ra về. Phạm Dao cho người nhà đến nhắn lời yêu cầu Nguyễn Minh Dương tạo hồ sơ chuyển tội trạng sang bọn đàn em đi cùng. Nguyễn Minh Dương trả lời là còn nhiều nhân chứng đang dùng bữa tại quán chứng kiến rõ ràng sự việc, không thể bịt mắt bịt mồm tất cả thế gian nên ông vẫn chuyển hồ sơ trung thực sang Thừa chính sứ ty để xét xử.

Ngày rằm tháng 3 năm 1578, Vợ chồng Hiến sát sứ Nguyễn Minh Dương đi cúng dường ở Chiêu Thiền Tự, khi quay về gặp một toán quân lính nhốn nháo đánh đuổi lẫn nhau rất hỗn loạn, sau khi đám hỗn quân ấy giải tán, cả hai vợ chồng đều bị đâm chết trên kiệu. Sự việc ấy được tung tin là do quân lính của Trấn ty đô thành tiễu trừ gian tặc thám báo quân đội Lê Trịnh và cái chết của vợ chồng Hiến sát sứ là do quân thám báo Lê Trịnh gây nên. Về sau có ý kiến nghi ngờ là quân của gia phủ Phạm Dao do căm giận Hiến sát sứ Nguyễn Minh Dương dám không làm theo ý họ về vụ án giết hai cha con ông chủ quán rượu. Nhưng rồi sự kiện này cũng chìm vào quên lãng, không có vụ án nào được khởi tố điều tra.

Đích thân quan Đốc trấn Thăng Long áp tải hai chiếc quan tài của hai vợ chồng Hiến sát sứ trấn đô thành do quân binh khiêng từ Thăng Long về làng Hoa Cầu phủ Tế Tiêu và cùng gia đình tổ chức tang lễ. Do Hiến sát sứ Nguyễn Minh Dương con quan nguyên là Đại tư đồ Thái bảo, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu nên Bộ Lễ cũng cử Tả thị lang Trạng nguyên Nguyễn Kính về viếng đám tang chia buồn cùng gia đình cụ Nguyễn Như Độ.

Năm ấy là năm có niên hiệu Diên Thành thứ nhất đời vua Mục Tông Mạc Mậu Hợp. Hiến sát sứ Nguyễn Minh Dương hưởng dương 57 tuổi còn vợ ông là bà Lê Thị mới có 54 tuổi.

Lê Thị Từ Thục ngất lên ngất xuống, khi tỉnh táo lại, bà nói với chồng:

- Tất cả là ở tại thiếp đã không nghe lời tướng công, không tin vào những lời tiên tri của quan bác Nguyễn Bỉnh Khiêm mới ra nông nỗi này.

- Cũng không hẳn thế, người mẹ nào mà chả mong muốn cho con cái thành đạt, rạng danh. Tôi đã cố gắng hết sức để tránh cho con cái họa binh đao nhưng vận của nó đã vậy, dù có cố gắng đến đâu cũng không cưỡng lại được ý Trời!

Năm 1580, niên hiệu Diên Thành thứ 3 đời Mục Tông Mạc Mậu Hợp, cụ Nguyễn Như Độ về theo tiên Tổ thọ 86 tuổi còn cụ bà Lê Thị Từ Thục sống đến tận năm 1595, tiếp tục được chứng kiến lời tiên tri của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm trở thành sự thật vào cuối năm 1592 - Nhà Mạc sụp đổ, chỉ còn một chút tàn quân chạy lên đất Cao Bằng, Nhà Lê Trung Hưng thống nhất giang sơn và kinh đô cũng trở về lại Thăng Long.

*

Theo gia phả dòng tộc họ Nguyễn ở Nghĩa Trai xã Như Quỳnh tỉnh Hưng Yên ghi húy kỵ cụ Nguyễn Minh Dương và cụ bà Lê Thị cùng vào ngày 15 tháng 3, con cháu hậu duệ các cụ cũng chỉ coi như là sự ngẫu nhiên hoặc gia phả nhầm lẫn do sưu tầm từ nhiều nguồn qua nhiều đời bị sai lệch, thất truyền.

Năm 2022, cánh đồng làng Xuân Cầu tức làng Hoa Cầu ngày xưa phải di dời mộ các cụ để giải tỏa giao đất cho dự án Đại An của Vingroup xây dựng Khu đô thị Ocean Park 3, hậu duệ tôn dòng họ Nguyễn khi bốc mộ các cụ bất ngờ thấy ngôi mộ cụ Nguyễn Minh Dương có hai cái quan tài nằm song song nhau bên dưới. Vậy là sau 444 năm ngày các cụ viên tịch, hậu duệ tôn của các cụ mới hiểu là các cụ mất cùng ngày, cùng tháng, cùng năm và lại được táng chung cùng một huyệt mộ.

Chùa Mía - Thơ Hoàng Anh Tuấn

Chùa Mía - Thơ Hoàng Anh Tuấn

Baovannghe.vn- Tôi về chùa Mía chiều đông/ Chuông gieo giọt sắc giọt không xuống ngày
Lau trổ bông (2) - Thơ Nguyễn Hữu Quý

Lau trổ bông (2) - Thơ Nguyễn Hữu Quý

Baovannghe.vn- Không có cái trập trùng, cái miên man nào cả/ chỉ hơi bất ngờ mùa đông
Đối cảnh  - Thơ Nguyễn Đông Nhật

Đối cảnh - Thơ Nguyễn Đông Nhật

Baovannghe.vn- Những năm tháng ở rừng để lại trong tôi/ nhiều ánh sáng và bóng tối.
31 quốc gia và vùng lãnh thổ tham dự triển lãm “Cuộc thi Ảnh nghệ thuật Quốc tế 2025”

31 quốc gia và vùng lãnh thổ tham dự triển lãm “Cuộc thi Ảnh nghệ thuật Quốc tế 2025”

Baovannghe.vn - Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam (VAPA) tổ chức Lễ trao giải và khai mạc Triển lãm Cuộc thi Ảnh nghệ thuật Quốc tế lần thứ 13 năm 2025 tại Việt Nam (VN-25). Đồng chí Trần Thanh Lâm, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương tham dự và cắt băng khai mạc Triển lãm.
Nải chuối của Xuân Hương

Nải chuối của Xuân Hương

Baovannghe.vn - ... Bảo rằng độc giả thích nhặt lỗi thì cũng đúng nhưng có lẽ chính người viết cũng rất sợ hãi nếu có một nhầm lẫn nào đó, nhất là lỗi về những cột mốc thời gian, những sự kiện, những dữ liệu, những căn cứ, những logic....