Trong Trầm tích thời gian, Vân Anh thực hành thao tác thẩm mĩ chủ đạo: “khâu” nỗi buồn lại để cấu tạo bản thể thi sĩ đồng thời công bố một diễn ngôn nhân văn về lịch sử và thân phận.
|
Vân Anh viết:
Trái tim cô đơn từ muôn kiếp trước
tâm hồn khao khát đến muôn kiếp sau
đa tình bẩm sinh trong máu
khâu buồn làm áo che thân
(Chân dung tự họa)
“Khâu buồn làm áo che thân” - câu thơ như một tuyên ngôn thi ca, cũng là một triết lí sống. Nỗi buồn - vốn dễ bị xem là gánh nặng tâm lí, là yếu đuối uỷ mị - trong thơ Vân Anh lại trở thành chất liệu sáng tạo, thành tấm áo vừa để bảo bọc vừa để hiển thị bản ngã. Câu thơ ấy cũng có thể xem như chìa khóa thông mở vào thi giới Trầm tích thời gian - tập thơ thứ chín của chị, nơi hội tụ hơn sáu thập kỉ nữ thi sĩ đắm mình trong chữ nghĩa, với bao lớp “trầm tích” của đời sống, kí ức, nhân sinh, lịch sử.
Nhà thơ ở tuổi gần tám mươi, sau khi đi qua biết bao biến động đời người và nhân thế, không chọn tiếng cười mà vẫn chọn nỗi buồn. Nhưng đó là một nỗi buồn đã được “khâu” lại, nghĩa là đã qua tay nghề của kinh nghiệm, của chiêm nghiệm, của thi ca. Nó không còn rời rạc, vụn vỡ, mà trở thành một tấm áo tinh thần để chị khoác lên mình, bước đi giữa nhân gian.
2.
Đọc Trầm tích thời gian, ta bắt gặp nhiều lần nhà thơ tự vấn, nhiều cuộc nhà thơ tự tìm mình. Những câu hỏi như “Ta là ai? Ta đến từ đâu? Ta phải sống thế nào?” từng ám ảnh bao thế hệ triết gia - thi sĩ, nhưng trong giọng thơ của Vân Anh, nó nhuốm màu của một người đàn bà từng trải, đa sự: yếu đuối và mạnh mẽ, chán nản và hi vọng, phủ định và khẳng định, âu lo và tự tin.
Ở một bài khác, chị viết:
Ta là ta, là duy nhất
tự mình thảnh thơi và tất bật
tự mình dối trá và chân thật
tự mình quẳng đi và gom nhặt
tự mình đong đếm được mất
tự mình tỏa sáng và lụi tắt…
(Bản ngã I)
Đây là dạng cái tôi hiện sinh mang đậm sắc thái nữ quyền: vừa tự phủ định vừa tự khẳng định, cho thấy một ngã thể đàn bà vừa dằn vặt vừa kiêu hãnh. Thơ, với Vân Anh, chính là cách “khâu buồn” - tức là nắm giữ, sắp đặt, chắp nối lại những mảnh vỡ tự thân để thành nhân dạng và nhân vị nữ sĩ.
3.
Thơ Vân Anh có nhiều lớp nỗi buồn. Đó là nỗi buồn thân phận đàn bà:
Những người đàn bà góa
cô đơn thiêu đốt thịt da
đổ lúa ra xay
đổ trấu ra xay
xay cạn đêm... (Xứ Nghệ)
Hình ảnh những góa phụ cháy dọc mùa đông/ trằn trọc lửa củi sim gợi một nỗi cô độc thấm vào thân xác. Nỗi buồn ở đây không chỉ mang tính cá nhân mà còn là niềm chung của bao thế hệ phụ nữ trong vùng đất khắc nghiệt.
Cùng lúc, có nỗi buồn lịch sử, gắn liền với quê hương, với chiến tranh, với thân phận dân tộc. Trong Trầm tích lịch sử, Vân Anh viết:
Nỗi đau mưu sinh
nỗi đau chiến tranh
cứa vào trái tim thi nhân
nhả ngọc thi ca...
Ở đây, thơ Vân Anh là một diễn ngôn kí ức, nơi nỗi buồn cá nhân tan chảy vào kí ức tập thể của cả một vùng văn hóa. Nhà thơ run rẩy đa mang gánh nỗi buồn của cộng đồng; nhờ thế, tiếng thơ chị gắn kết sâu với những bi tráng của lịch sử vùng miền.
4.
Nếu nỗi buồn chỉ dừng ở than thở thì sẽ thành vô nghĩa. Vân Anh “khâu buồn” không phải để giữ cho riêng mình, mà để nó trở thành áo, tức là một lớp che chở và cũng là biểu hiện ra bên ngoài. Bằng cách đó, buồn trong thơ chị biến thành một hình thức “sẻ chia”.
Thử đọc những câu thơ chị viết cho nữ sinh bị bạo lực học đường:
Vắt giọt thương từ trái tim làm mẹ
vắt giọt sẻ chia từ trái tim thi sĩ
vắt giọt ăn năn của lương tri
dâng Em
vần thơ ứa giọt đau buồn
(Dâng nữ sinh khép lại tuổi 17)
Đây là một ví dụ tiêu biểu của “khâu buồn”: từ một bi kịch riêng, nhà thơ kết dệt nên tấm áo của nhân quần, trong đó mỗi sợi chỉ dệt từ “giọt thương”, “giọt sẻ chia”, “giọt ăn năn”. Nỗi buồn không còn đơn độc, mà mở ra chiều kích nhân loại, nhân văn.
Cũng vậy, trong bài Lời ru mùa đại dịch, viết cho một em bé chỉ mười ngày tuổi trên đường hồi hương bằng xe máy, buồn lại trở thành ru, thành giấc ngủ lành:
À ơi
em ngủ cho ngoan...
mai sau đọc vần thơ lưu giữ ngày đại dịch
em lại làm một Ông Bụt hiền lương
Một sự dịch chuyển từ nỗi buồn cá nhân sang nỗi buồn tha nhân, khi thơ trở thành nơi cất giữ và lan tỏa những chấn thương xã hội.
5.
Một mạch quan trọng trong thơ Vân Anh là “đức tin”. Trong bài Đức tin, chị khẳng định:
Lạc Đức Tin
ta sẽ là con thú hoang sống giữa rừng nhân thế
ta sẽ là con cá dữ sống giữa đại dương nhân thế
Đức Tin
nguồn siêu năng lượng
nạp cho ta sống kiếp Làm Người
Ở bình diện mĩ học, “đức tin” trong thơ Vân Anh không phải niềm tin tôn giáo thuần tuý mà là niềm tin thế tục (secular faith), một “nguồn siêu năng lượng” giúp thi sĩ giữ thế cân bằng giữa bi kịch và khát vọng vượt thoát. Nhờ đức tin, nỗi buồn không biến thành tuyệt vọng, mà trở thành động lực để tiếp tục “sống”, tiếp tục yêu thương. Ở đây, áo buồn không chỉ là tấm che chở, mà còn là y phục của niềm tin - một thứ áo giáp tinh thần để con người có thể đi qua giông bão.
6.
Trầm tích thời gian chủ yếu là thơ tự do, bên cạnh đó có nhiều bài lục bát, song thất lục bát, thậm chí những biến thể hiện đại. Dù ở thể loại nào, “khâu buồn” cũng là một thao tác thẩm mĩ: chọn lọc, sắp đặt, biến những trải nghiệm đau thương thành vần điệu.
Chẳng hạn, bài Sẹo buồn ngắn gọn mà gợi ám ảnh:
Nhành thu rơi vào tim nhớ
thắp lửa tình xưa vào thơ
...
sẹo buồn trở trời nhức mỏi
hoài niệm sao bỗng mọc chồi
Hình tượng “sẹo buồn” là một kiểu thẩm mĩ hóa thân thể, nơi cơ thể trở thành văn bản lưu giữ kí ức. “Sẹo buồn trở trời nhức mỏi” đồng nghĩa với nỗi buồn không biến mất, mà hoá thành kí ức sống động, nguồn thi liệu ấm nóng.
7.
Không ít bài trong tập thơ gắn liền với quê hương xứ Nghệ, nơi vừa khắc nghiệt vừa giàu hào khí. Vân Anh viết:
Đất miền Trung cằn khô cong đòn gánh
oằn gánh hai đầu Tổ quốc
...
người miền Trung
mười ngón chân hoá rễ cây bám đất
mười ngón tay hoá cành lá hút cạn Mặt Trời
(Đất và người miền Trung)
Qua hình tượng đất và người miền Trung, thơ Vân Anh khẳng định mã địa văn hóa đã định hình căn tính sáng tạo của chị. Buồn vì thiên nhiên khắc nghiệt, vì bao đời lam lũ, nhưng đồng thời lại là niềm kiêu hãnh, niềm tự tôn. Khi “khâu buồn” vào thơ, chị cũng đồng thời khâu vào đó tinh thần bất khuất, sức sống vươn lên từ sỏi đá.
8.
Trầm tích thời gian có nhiều bài như là những diễn ngôn triết học thi ca, chẳng hạn Cài đặt lại ta, Tự ru, Ngẫm… Ở đó, nỗi buồn trở thành phương tiện nhận thức:
Tự mình chưng cất vần thơ
ngọt cay độc ẩm, bao giờ hết say?
(Tự ru)
“Say” ở đây không chỉ là say rượu hay say tình, mà còn là say nỗi buồn. Thi sĩ uống nỗi buồn, “chưng cất” nó thành ngôn từ. Bởi vậy, “khâu buồn làm áo che thân” cũng có nghĩa: biến buồn thành tác phẩm, thành tự ngã được lưu giữ trong thi ca.
9.
Câu thơ “khâu buồn làm áo che thân” không chỉ là một lời tự họa. Nó đã trở thành không khí bao trùm của Trầm tích thời gian. Vân Anh cho thấy rằng nỗi buồn - vốn thường bị gạt ra ngoài - thực chất là một dạng năng lượng tinh thần. Khâu buồn tức là biến năng lượng ấy thành hình thức, thành y phục, thành cõi riêng, tức là “lộ thiên trầm tích Ta”, như câu thơ chị viết trong bài Ngụ ngôn cho mình I.
Ở tuổi gần tám mươi, nhà thơ không còn viết để chinh phục hay để nổi loạn, mà viết để lưu lại chứng tích sống, để nới giãn hữu hạn thời gian đời người, để độ lượng với chính mình, để thoả hiệp với chiêm mộng nhân sinh.
Và có lẽ, khi khép lại tập thơ, mỗi độc giả cũng thấy mình mặc trên người một tấm áo thi ca - tấm áo của nỗi buồn đã được khâu lại bằng sợi chỉ của đức tin, của nỗi thèm yêu khát sống.
Như vậy, “khâu buồn làm áo che thân” là ẩn dụ trung tâm cho thi giới Vân Anh, đồng thời góp thêm một tiếng nói thơ giàu bản sắc vào dòng thơ nữ Việt Nam đương đại. Đọc Trầm tích thời gian, củng cố ở người đọc xác tín: từ khởi thuỷ đến tận thế, thơ luôn là một liều cứu rỗi. Như nhà thơ người Hungary Sándor Halmosi từng viết:
Thiên thần buông tay
Bài thơ thì vẫn nắm chặt lấy.