Sau 1975, đất nước hòa bình thống nhất, thế hệ nhà văn tiền chiến tiếp tục đóng góp vai trò quan trọng trong việc kiến tạo nền văn học Việt Nam thống nhất hòa bình. Trưởng thành và cầm bút trong không gian văn học thuộc địa từ trước độc lập năm 1945, trăn trở nhận đường để tiếp tục sáng tạo trong không gian văn học cách mạng suốt cuộc chiến tranh ba mươi năm 1945-1975, thế hệ nhà văn tiền chiến mang đến đời sống văn học sau ngày đất nước thống nhất bài học trưởng thành và biến chuyển của chính nền văn học Việt Nam hiện đại và cách mạng giờ đây đang nỗ lực khẳng định tiếng nói quốc gia và hòa nhập sâu rộng với các nền văn học tiến bộ trên toàn cầu. Với bề dày kinh lịch văn hóa và lịch sử, với hành trang là gia tài kinh nghiệm nghệ thuật và năng lực điều chỉnh ý thức hệ, tất cả đã tạo nên cơ hội và thách thức cho thế hệ nhà văn tiền chiến khẳng định vị thế và tỏa sáng trên văn đàn.
Đời sống hòa bình thống nhất của đất nước đã mở đường cho các nhận thức, đánh giá và kiểm kê di sản văn học nghệ thuật. Từ đầu những năm 1980 nổi lên xu thế xuất bản các tuyển tập sáng tác của các nhà văn thế hệ tiền chiến, gồm cả những nhà văn đã khuất và những nhà văn còn đang sáng tác. Nhà xuất bản Văn học giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng hệ thống dữ liệu về các nhà văn. Trong bối cảnh nền xuất bản kế hoạch hóa, một nhà xuất bản trung ương đứng ra tổ chức bản thảo là một chỉ dấu cho thấy sự chuẩn thuận từ phía các nhà quản lý văn học nghệ thuật. Đương thời, Nhà xuất bản Văn học cũng đứng ra tổ chức thành công việc dịch thuật và xuất bản các tác phẩm kinh điển của các nền văn học nước ngoài. Theo đó, việc hệ thống và giới thiệu đến bạn đọc các danh tác của nhà văn nước ngoài và trong nước không chỉ đơn thuần là một nhiệm vụ hành chính hay kinh doanh văn hóa đơn thuần, nó hàm chứa trong đó ý thức về việc chuẩn định giá trị văn học nghệ thuật, từ cả phía chính quyền và nhu cầu phát triển tự thân của nền văn học. Hàng loạt tuyển tập của các nhà văn tiền chiến như Nguyễn Tuân, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Thế Lữ, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Đặng Thai Mai, Nguyễn Huy Tưởng, Chế Lan Viên, Huy Cận, Nguyễn Bính, Nguyễn Công Hoan, Tản Đà… đã được xuất bản. Các tuyển tập cũng được tuyển lựa và giới thiệu công phu, có sự hợp tác giữa nhà xuất bản và các nhà văn uy tín, các nhà nghiên cứu phê bình văn học đang giữ cương vị quản lý, là chuyên gia hay giảng viên ở các viện nghiên cứu và trường đại học chuyên về khoa học xã hội và nhân văn. Thực tế, ý nghĩa của công việc này còn lớn hơn nhiều nỗ lực của một nhà xuất bản. Bởi việc điển phạm hóa giá trị văn học của thế hệ nhà văn tiền chiến thông qua việc xuất bản các tuyển tập tác phẩm cùng với sự phân tích, định giá, định hướng tiếp nhận của các nhà văn, nhà nghiên cứu đem đến một tác động lớn tới không chỉ sự nghiệp cá nhân nhà văn mà còn định hình di sản văn học dân tộc.
Công cuộc Đổi mới từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) càng góp phần mở rộng con đường cho sự trở lại của văn học tiền chiến, nhất là ở bộ phận văn học được định danh là văn học lãng mạn vốn bị cấm đoán trong những năm chiến tranh. Điều này khiến cho, sau gần nửa thế kỷ vắng bóng trong đời sống văn học cách mạng vì sự khác biệt ý thức hệ, văn học tiền chiến đã được tái bản ồ ạt theo cùng sự bung ra của đời sống xuất bản. Và giống như việc chuẩn định giá trị văn học bằng các tuyển tập tác giả, bộ phận văn học này cũng được chuẩn định (tiêu biểu với tập tuyển đồ sộ Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930-1945, gồm 6 tập, do Nguyễn Hoành Khung, Phong Hà, Nguyễn Cừ, Trần Hồng Nguyên biên soạn, Nguyễn Hoành Khung viết giới thiệu, Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành lần đầu năm 1989, được tái bản nhiều lần trong các năm tiếp sau), thậm chí được chuẩn định thành học liệu trong hệ thống giáo dục, khi rất nhiều tác phẩm của các nhà văn tiền chiến được xuất bản dưới các nhãn hiệu như “tủ sách nhà trường”, “văn học trong nhà trường”... Điểm thú vị ở đây là, bên cạnh việc đánh giá “văn xuôi lãng mạn Việt Nam (1930-1945) rất rộng, đa dạng và phong phú, nó đã có những đóng góp không nhỏ trong toàn cảnh nền văn học nước ta ở thời kỳ 1930-1945”, trong lời giới thiệu ở trang bìa 4, các soạn giả còn dẫn lại phát biểu của Trường Chinh tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc năm 1957 - “Việc uốn nắn lại thái độ hẹp hòi máy móc đối với những giá trị văn học cũ, không những có tác dụng sửa chữa những thái độ bất công đối với nhiều tác phẩm mà còn có tác dụng mở rộng con đường cho sáng tác hiện thời” - để hợp thức cho việc vừa “cố gắng không để sót một tác phẩm có giá trị thực sự nào” vừa giới thiệu trở lại các tác phẩm “theo đúng nguyên tác của tác giả, nhằm mục đích phục vụ cho các đối tượng: nghiên cứu, giảng dạy, sinh viên khoa ngữ văn và bạn đọc yêu thích văn học”. Rõ ràng, dù có những uyển ngữ nhất định như là các chiến lược diễn ngôn của các soạn giả, nhưng nhờ hậu thuẫn của công cuộc Đổi mới và sự đổi mới tư duy, việc xem văn học lãng mạn tiền chiến là bộ phận “có giá trị” và tái bản “theo đúng nguyên tác của tác giả” là một bước ngoặt trong việc đánh giá và tái phổ biến di sản văn học quá khứ. Theo đó, cùng với sự phổ biến của các ấn bản thương mại, việc khẳng định giá trị nghệ thuật và chuẩn định hóa đem đến tính chính danh cho văn học lãng mạn thời tiền chiến. Với độc giả, sự phổ biến của văn học tiền chiến không chỉ đem đến những cơ hội rộng mở của việc đa dạng hóa các thụ hưởng nghệ thuật mà còn giúp họ mở rộng kinh nghiệm thẩm mỹ ra bên ngoài khung khổ độc tôn của loại hình văn học nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với độc giả trẻ, những nhà văn và bạn đọc làm nên thời kỳ rực rỡ của văn học Đổi mới và sự đổi mới văn học được mở ra nhờ công cuộc Đổi mới đất nước. Không phải ngẫu nhiên mà cảm hứng và ngôn từ lãng mạn lại hiện diện phổ biến trong văn học trẻ vào thập niên cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Tinh thần lãng mạn luôn gắn với các cuộc cách mạng xã hội mà công cuộc Đổi Mới là một ví dụ điển hình. Nhưng sự đậm đặc của tính chất lãng mạn trong văn học Việt Nam những năm sau Đổi mới chắc chắn còn chịu tác động mạnh mẽ từ sự phổ biến của việc tái bản văn học lãng mạn tiền chiến.
|
Không chỉ các tác phẩm văn học được trở lại, tìm thấy đời sống mới và phát huy ảnh hưởng, bản thân các nhà văn thế hệ tiền chiến cũng được ghi nhận và vinh danh. Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật, một giải thưởng cao quý nhất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được trao lần đầu tiên vào năm 1996, đã vinh danh 48 văn nghệ sỹ chủ yếu thuộc thế hệ tiền chiến, trong đó có 14 nhà văn, gồm: Nam Cao, Huy Cận, Xuân Diệu, Tố Hữu, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, Ngô Tất Tố, Chế Lan Viên, Hải Triều, Nguyễn Huy Tưởng, Tế Hanh, Tô Hoài. Trong các lần trao tiếp theo, thêm nhiều nhà văn tiền chiến khác được vinh danh, như: Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh, Tú Mỡ (đợt 2, năm 2000), Anh Thơ (đợt 3, năm 2005), Bùi Hiển (đợt 6, năm 2022). Đấy là chưa kể nhiều nhà văn đồng thời cũng là kịch tác gia, nhà nghiên cứu, nhạc sĩ… được vinh danh ở các hạng mục khác, như Sân khấu với Học Phi (đợt 1, năm 1996), Thế Lữ (đợt 2, năm 2000); Văn nghệ dân gian với Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đổng Chi (đợt 1, năm 1996); Âm nhạc với Văn Cao (đợt 1, năm 1996). Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật thuộc thứ bậc cao quý thứ hai sau Giải thưởng Hồ Chí Minh, được trao lần đầu tiên năm 2001, và vào các năm liền sau (2007, 2012, 2017, 2022), cũng gọi tên nhiều nhà văn thế hệ tiền chiến. Sự vinh danh của Nhà nước đối với các nhà văn thế hệ tiền chiến khắc ghi công lao của họ đối với dân tộc, đánh giá cao đồng thời cũng chuẩn mực hóa những biểu hiện nghệ thuật thông qua các sáng tác được tôn vinh, làm tiêu biểu cho giá trị văn hóa tinh thần của nhân dân và đất nước Việt Nam.
Có vị trí trong các hội đoàn văn học, được công nhận và vinh danh, nhưng trên hết, thế hệ nhà văn tiền chiến trong đời sống văn học Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất còn hiện diện bởi chính những sáng tác mới. Họ hăm hở khám phá những hiện thực nghệ thuật khác hay trình hiện những tìm tòi nghệ thuật mới mà thời bình và không gian văn học chuyển đổi nhờ công cuộc Đổi mới đem lại. Họ cũng trầm ngâm ngoái lại hành trình văn học của mình và thế hệ mình, làm sôi nổi loại hình hồi ký văn chương, những tác phẩm không chỉ làm tài liệu cho văn học sử mà còn đem đến một phương diện ý thức về cái tôi và trách nhiệm của văn nghệ sĩ trước nghệ thuật và xã hội.
Sau 1975, ở trung tâm của đời sống văn học lắm thăng trầm, Nguyễn Đình Thi, nhà văn trẻ nhất trong thế hệ nhà văn trưởng thành thời tiền chiến, nhạy cảm với sự đổi thay. Chính xác hơn, ngay từ trong thời chiến, Nguyễn Đình Thi đã chú tâm tới việc cách tân nghệ thuật kịch, bắt đầu bằng Con nai đen (1961). Bước sang thời bình, ông càng quan tâm tới việc đổi mới nghệ thuật kịch, với Hoa và Ngần (1975), Rừng trúc (1978), Nguyễn Trãi ở Đông Quan (1979), Giấc mơ (1983), Tiếng sóng (1985), Hòn cuội (1987) và một số kịch ngắn khác. Nguyễn Đình Thi cũng ý thức về việc cách tân thơ, như trước kia, trong những năm đầu ở chiến khu Việt Bắc, ông đã cách tân và hiện đại hóa thơ ca Việt Nam bằng việc đưa ra quan niệm và thực hành sáng tác thơ tự do không vần. Để rồi, vì tình thế chiến tranh, ông từ bỏ tiếng thơ cá nhân hóa để hòa vào dàn hợp xướng thơ ca cách mạng, làm những bài thơ khắc họa những vẻ đẹp siêu việt, những hình ảnh kỳ vĩ của đất nước và con người Việt Nam trong chiến đấu và chiến thắng. Hòa bình thống nhất đất nước, Nguyễn Đình Thi không sáng tác nhiều thơ, cũng không đem đến một quan niệm cách tân thơ mạnh mẽ như đòi hỏi về nhịp điệu hình ảnh như trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, nhưng việc ông từ bỏ tiếng thơ chính luận để hướng về những lời thơ thủ thỉ tâm tình như các bài thơ được tập hợp trong các tập Tia nắng (1983), Trong cát bụi (1992) cho thấy một bước ngoặt về cảm hứng thơ của một lãnh đạo văn nghệ. Ứng xử nghệ thuật trong thơ của Nguyễn Đình Thi giống như cách mà tập thơ Một tiếng đờn (1991) làm nên bước ngoặt trong thơ Tố Hữu, nhà thơ lớn của cách mạng Việt Nam vốn luôn được biết đến với cảm hứng chính luận và anh hùng ca trong suốt hai cuộc chiến tranh. Nhưng những thay đổi quyết liệt nhất trong thơ hiện diện ở Chế Lan Viên. Chiến tranh kết thúc, không còn phải “hướng ra bề rộng, bề nhiều” của đời sống đất nước, Chế Lan Viên đem chất suy tưởng ngụp lặn vào sâu trong tâm hồn, đi tìm và giải mã cái tôi ngày thường bộn bề phức tạp: Anh là tháp Bayon bốn mặt/ Giấu đi ba còn lại đó là anh/ Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc/ Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình. Thơ Chế Lan Viên giờ đây là tiếng kêu khắc khoải đòi hỏi, yêu cầu, giục giã nhà thơ đối diện với lựa chọn và hành động trong quá khứ của mình. Sớm gây ấn tượng với Hái theo mùa (1977), Hoa trên đá (1984), Ta gửi cho mình (1986), nhưng phải đến Di cảo thơ (3 tập, 1993-1996), một lần nữa sau Điêu tàn (1937), Chế Lan Viên mới làm thêm một “niềm kinh dị” trong đời sống thơ ca Việt Nam. Đương thời, mong muốn và hành trình “đi tìm mặt”, đòi hỏi và sự quyết liệt trong việc trả lại khuôn diện thật cho người thi sĩ ở Chế Lan Viên đã tạo nên một cảm hứng lớn cho việc đổi mới thơ ca nói riêng và văn học nói chung. Cùng với Nguyễn Đình Thi, Tố Hữu, Chế Lan Viên, nhiều nhà thơ tiền chiến khác cũng dần thay đổi tư duy, thế giới và hình tượng nghệ thuật thơ. Những thay đổi ấy tạo hiệu ứng và song hành với những tìm tòi của các nhà thơ các thế hệ tiếp sau, làm nên nhiều phong trào cách tân thơ Việt Nam suốt 50 năm sau ngày đất nước thống nhất.
|
Thế hệ các nhà văn tiền chiến cũng để lại dấu ấn ở lĩnh vực văn xuôi. Bùi Hiển là nhà văn tiền chiến còn tiếp tục tìm tòi đổi mới nghệ thuật viết truyện ngắn sau ngày đất nước thống nhất. Sau các tập truyện ký Một cuộc đời (1976), Ý nghĩ ban mai (1980), hai tập truyện ngắn Tâm tưởng (1985) và Ngơ ngẩn mùa xuân (1992) có nhiều truyện độc đáo. Ngòi bút Bùi Hiển đã theo sát với sự chuyển mình của đời sống đất nước cũng như những chuyển động chung của đời sống văn học. Thể loại tiểu thuyết có sự hiện diện của Nguyên Hồng và Tô Hoài, với các sáng tác lấy chất liệu từ lịch sử quê hương hoặc câu chuyện đời tư. Năm 1976, sau khi hoàn thành tập 4 (Khi đứa con ra đời) của bộ Cửa biển, Nguyên Hồng dành tâm huyết viết bộ tiểu thuyết lịch sử Núi rừng Yên Thế. Tuy nhiên, cho tới khi qua đời vào năm 1982, ông mới hoàn thành trọn vẹn tập 1, xuất bản với nhan đề Thù nhà nợ nước (1981); tập 2 viết dang dở, về sau được tập hợp để in với nhan đề Núi rừng Yên Thế (1993). Tô Hoài có một số tiểu thuyết và tập truyện, như Những ngõ phố, người đường phố (1980), Quê nhà (1981), Nhớ Mai Châu (1988), Tình buồn (1995) cùng rất nhiều truyện viết cho thiếu nhi. Trong đó Ba người khác (2006), tiểu thuyết viết về cải cách ruộng nhưng mang nhiều yếu tố tự truyện của Tô Hoài đã trở thành một hiện tượng văn học vào đầu thế kỷ 21. Tô Hoài cũng là cây bút sung sức và nổi bật nhất của thế hệ nhà văn tiền chiến tham dự vào đời sống văn học Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất. Cùng với tiểu thuyết và truyện ngắn, Tô Hoài có hàng loạt các tác phẩm ký và tản văn đáng chú ý, như Tự truyện (1978), Hoa hồng vàng song cửa (1981), Chuyện cũ Hà Nội (1986), Cát bụi chân ai (1992), Hà Nội và Hà Nội (1996), Chiều chiều (1999), Tạp bút (2000)... Lối kể chuyện nhẩn nha, hóm hỉnh, tỉ mẩn và giàu chi tiết sống động như một đặc điểm của ký và tản văn Tô Hoài cũng hiện diện đậm đặc trong các hư cấu nghệ thuật khác của ông, từ tiểu thuyết, truyện ngắn cho tới các sáng tác viết cho thiếu nhi. Chính lối viết ấy đã làm nên thương hiệu và vị trí đặc biệt của Tô Hoài, khiến văn chương ông trở nên gần gũi với đông đảo bạn đọc, tác phẩm của ông liên tục được tái bản, chinh phục được độc giả nhiều thế hệ.
Có một điểm đáng chú ý là, các tác phẩm của Tô Hoài hay Nguyên Hồng, Bùi Hiển được viết sau chiến tranh đều nhiều ít có pha trộn dấu ấn đặc trưng thi pháp của tản văn và các thể ký. Đây cũng là loại hình văn học để lại dấu ấn đậm nét nhất của thế hệ nhà văn tiền chiến trong đời sống văn học Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất. Điều này có lẽ xuất phát từ kinh lịch của các nhà văn, nhu cầu hồi tưởng và viết lại các câu chuyện quá khứ của những cây bút bước vào tuổi xế chiều, hoặc qua chuyện mình mà tỏ chuyện đời, hoặc bổ khuyết những khoảng trống của lịch sử văn học và đời sống đất nước một thời đã qua. Một loạt hồi ký văn chương của các nhà văn thế hệ tiền chiến được xuất bản giúp cho bạn đọc hình dung về đường đời, đường văn của cá nhân nhà văn hồi tưởng nói riêng và không khí văn học một thời nói chung. Có thể nhắc đến Hồi ký (1985) của Đặng Thai Mai, Từ bến sông Thương (1986) và các tập tiếp theo: Tiếng chim tu hú (1996), Bên dòng chia cắt (2002) của Anh Thơ, Những năm tháng ấy (1987) của Vũ Ngọc Phan, Nhớ nghĩ chiều hôm (1989) của Đào Duy Anh, Nửa đêm sực tỉnh (1989) của Lưu Trọng Lư, Cát bụi chân ai (1992), Chiều chiều (1999) của Tô Hoài, Hồi ký Thanh Nghị (1997) của Vũ Đình Hòe, Nhớ lại một thời (2000) của Tố Hữu, Hồi ký song đôi (2 tập, 2002, 2003) của Huy Cận...; các tập hồi ký pha tiểu luận chân dung văn học như Những gương mặt (1988) của Tô Hoài, Bạn bè một thuở (1999) của Bùi Hiển, Những gương mặt mến yêu (2001) của Nguyễn Xuân Sanh… tất cả đều đem đến những hiểu biết hữu ích về một thời văn học nghệ thuật đã qua.