Sự đổi mới này nhờ vào các nhà nghiên cứu trẻ, phần lớn đều sinh ra sau chiến tranh, họ được coi là những người có cách nhìn và phương pháp được coi là hậu thuộc địa (post-coloniaux), theo nghĩa thời gian và phương pháp luận của thuật ngữ này. Bên cạnh loạt tác phẩm được tái hiện bằng sự gắn kết và ánh sáng mới, dường như bị giới hạn trong thời kỳ thuộc địa, ta nhận thấy có một nền văn học Việt Nam được viết bằng tiếng Pháp tiếp tục và xuất hiện trở lại, vượt thời gian và lãnh thổ, dù ở Việt Nam, Pháp hay Canada. Tôi muốn được đề cập đến một số tác phẩm của các tác giả nữ gốc Việt Nam, những người có thể biết hoặc không biết đến đất nước này, nhưng dù sao nhờ tiếng vang của quá khứ hay những ký ức được tìm lại, họ dã chọn viết bằng tiếng Pháp. Kim Lefevre, Anna Moi, Linda Lê, Kim Thúy, Trần Thị Hảo (và có thể còn những người khác) tạo thành một nhóm không đồng nhất. Tôi muốn khám phá về những tác phẩm họ viết, những mối quan hệ giữa các nền văn hóa, những bản sắc tương hợp hay có tính cạnh tranh, tình cảm của những người con xa xứ, thể loại tác phẩm, nỗi nhớ quê hương và sự hiện đại, mối quan hệ ngay trong nội bộ từng ngôn ngữ hoặc với các ngôn ngữ khác. Liệu ta có thể đồng nhất việc đóng góp của nền văn học viết bằng tiếng Pháp này, qua sự thể hiện của các nữ tác giả gốc Việt từ cái nhìn của thế giới đương đại?”.
Ảnh minh hoạ |
Phần đề dẫn của Henri Copin quả thật ngay từ đầu đã vô cùng thú vị: hiện tượng các nhà văn Việt Nam viết bằng tiếng Pháp từng một thời được vinh danh (như Phạm Duy Khiêm, Phạm Văn Ký) nay bỗng được khơi lại. Điều đặc biệt thú vị hơn, những đại diện của dòng văn chương này đa số lại là tác giả nữ, hiện nay còn sống và viết. Sự nổi tiếng của họ ở trong nước cũng rất khác nhau. Người lớn tuổi nhất Kim Lefevre, năm nay đã 84 tuổi, và người ít tuổi nhất Kim Thúy (tên thật là Nguyễn Tịnh An, 51 tuổi) cũng như Anna Moi (64 tuổi), Trần Thị Hảo (62 tuổi), ít nhiều đều được những người đọc trong nước quan tâm. Năm nữ nhà văn được gắn cho cái “biệt danh” rất độc đáo: Năm nàng công chúa Ngũ Long (nghe nói Henri Copin đã chọn được cái tên này từ trong một tác phẩm của nhà văn Nguyễn Đình Chiểu, xứ Nam bộ, tác giả của hai câu thơ nổi tiếng “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”) đại diện cho thế hệ văn chương đương đại viết bằng tiếng Pháp đã dệt nên tấm “hoa văn” rực rỡ và đa dạng sắc mầu của nền nền văn học francophone, mà Việt Nam là một trong những thành viên quan trọng.
Mối quan tâm của giới “tinh hoa” Pháp về một hiện tượng nổi lên gần đây trong những người cầm bút nữ gốc Việt viết văn bằng tiếng Pháp, rõ ràng là một điều đáng mừng. Nhưng theo tôi, còn đáng mừng hơn, khi chúng ta được chứng kiến đã có sự tiếp nhận “cởi mở” và “thông thoáng” hơn đối với khuynh hướng văn học này. Bước sang thế kỷ XXI, các nhà phê bình đã bớt phần “hẹp hòi”, tâm thế tiếp nhận cũng công bằng và khách quan hơn. Trước những tiếng nói “khác lạ”, độc giả đã thực sự có được sự cẩn trọng.
Quả thật, trong số năm nhà văn nữ chúng ta vừa nhắc đến ở trên, dù được xếp trong cùng một hiện tượng, những cây bút viết bằng tiếng Pháp, nhưng tuổi tác và con đường họ đến với tiếng Pháp và văn chương cũng rất khác nhau. Kim Lefevre có dòng máu pha trộn giữa Pháp và Việt (cha Pháp, mẹ Việt). Bà sinh năm 1935, theo cha mẹ sang Pháp từ năm 1963, làm nhiều nghề khác nhau, diễn viên, giáo sư văn học, viết văn, dịch giả. Con số tác phẩm mà Kim Lefevre để lại cho người đọc đến thời điểm này tuy không nhiều (4 tác phẩm: Cô gái lai da trắng, 1989, Trở lại mùa mưa, 1990, Tôi, Malinna Malinche,1994, Những cánh chim chết ở Mékong, 2006), nhưng lại hết sức ấn tượng. Đặc biệt nhất, Cô gái lai da trắng (Métisse blanche 1989,), một tác phẩm gần như được viết dưới dạng tự truyện, kể lại cuộc đời một cô bé mang trong mình hai dòng máu khác nhau, đã phải trải qua những năm tháng nhọc nhằn, vất vả để khẳng định cái tôi của mình. Ở thời điểm Kim Lefevre rời Việt Nam (1963), chúng ta hãy nhớ lại, cuộc chiến tàn khốc của thực dân Pháp chống lại nhân dân Việt Nam chỉ vừa khép lại chưa lâu, vết thương chiến tranh vẫn còn chưa kịp lành lặn. Thế nhưng ngay sau đó, một cuộc chiến khác còn tàn khốc hơn lại tiếp diễn với một kẻ ngoại bang mới: đế quốc Mỹ. Cuộc trở về cội nguồn của Kim Lefevre chắc hẳn còn khó khăn hơn. Nhưng dù khó thế nào, từ tận đáy lòng mình, bà vẫn giữ được những tình cảm đặc biệt với quê hương xứ sở. Những tác phẩm của bà từ sau năm 1989 vẫn trở lại với mảng đề tài về Việt Nam. Và ẩn sâu trong những tác phẩm viết bằng một thứ tiếng “xa lạ”, vẫn đậm đặc nét tâm hồn Việt. “Viết bằng tiếng Pháp nhưng không viết tiếng Pháp”, Kim Lefevre đã thể hiện được đúng tinh thần đó.
Ở một phía khác, con đường dẫn Anna Moi (tên thật là Trần Thiên Nga) đến với tiếng Pháp lại hết sức tự nhiên. Sinh 1955 tại Sài Gòn, say mê và có năng khiếu nghệ thuật, năm 1973, Anna Moi sang Pháp du học. Ban đầu bà theo môn lịch sử tại trường Đại học Nantèrre. Trong suốt 20 năm lăn lộn thử thách với khá nhiều nghề nơi xứ người, đến năm 1992, Anna Moi mới có dịp trở lại Việt Nam. Và bà đã không khỏi ngạc nhiên rằng, chỉ trên chính mảnh đất quê hương, năng khiếu văn chương của mình mới có cơ may nảy mầm và phát triển. Bà chân thành bộc bạch: “Tôi xa Việt Nam lâu, trở nên rành tiếng Pháp hơn hết thảy, nên tôi chọn tiếng Pháp để sáng tác. Nhưng những câu chuyện đầu tiên nâng đỡ và chắp cánh cho tôi trên con đường viết văn lại chính là Việt Nam”; và: “Khi về lại Việt Nam, tôi mới hiểu ra sao, vì sao bao năm qua mình đã không viết được. Khi sống ở nước ngoài con người tôi luôn thiếu một số thành tố nào đó để hoàn chỉnh. Chỉ có trở về đây, tôi mới ráp cho mình được những mảnh thất lạc ấy”. Trong khoảng hơn 20 năm sau chuyến trở về từ Việt Nam, Anna Moi đã hoàn thành 8 tập truyện ngắn và tiểu tiểu thuyết: Tiếng vọng từ những cánh đồng ( 200), Hương thơm ngôi chùa (2004), Cơm đen (2004), Chim săn mồi (2005), Violon (2006), Nọc bướm (2017). Một số trong những tác phẩm này đã nhận được những giải thưởng danh giá. Và điều quan trọng hơn, gần như tất cả các tác phẩm của bà đều lấy cảm hứng trực tiếp từ Việt Nam. Trong một thứ tiếng Pháp thuần khiết, Anna Moi viết về quê hương mình bằng giọng văn “yêu đời, hóm hỉnh”, “viết để quên đi nỗi sợ và cái chết”, “viết với sự hòa âm và một cảm hứng thiêng liêng” (Le Nouvel Observateur).
Ít tuổi hơn một chút, sinh 1957, Trần Thị Hảo, có lẽ trong cuộc hành trình đến với tiếng Pháp suôn sẻ và thuận lợi hơn rất nhiều. Sinh ra và lớn lên từ Hà Tĩnh, một thành phố phía bắc miền Trung nghèo khó và khắc nghiệt, Trần Thị Hảo vào học khoa tiếng Pháp trường Đại học Ngoại ngữ, nay là Đại học Hà Nội. Tốt nghiệp, bà trở thành giảng viên Ngôn ngữ và Văn học Pháp chính tại đây. Năm 2002, sau khi nhận bằng tiến sĩ chuyên ngành văn học so sánh tại trường Đại học Sorbonne IV, bà chính thức trở thành cán bộ nghiên cứu tại chính ngôi trường danh tiếng này. Kể từ đó, tình yêu văn chương đã chắp cánh cho Trần Thị Hảo có được những giấc mơ bay bổng. Bà không chỉ viết văn bằng tiếng Việt, mà còn cả tiếng Pháp. Chỉ trong khoảng hơn chục năm cầm bút, từ 2006 tới nay, ngoài hàng chục cuốn tiểu thuyết bằng tiếng Việt và những cuốn biên khảo chuyên ngành, Trần Thị Hảo đã lần lượt cho ra đời các tiểu thuyết viết bằng tiếng Pháp: La jeunne fille et la guerre (2006), A toujour ma concubine (2010), La derniere Impératrice dAnnam: Nam Phuong (2014), J’aurai ving áns dans deux jours (2016). Tất cả các tác phẩm này đều cùng được in từ Nhà xuất bản Harmattan. Trong số đó có không ít tác phẩm đã được đưa vào giảng dạy tại các chương trình giáo dục ngữ pháp ngay chính nước Pháp.
Trong số các nhà văn nữ gốc Việt viết bằng tiếng Pháp, có lẽ Linda Lê là nhà văn đi xa nhất trong nghề cầm bút của mình. Cái tên Linda Lê ngày nay đã không còn mấy xa lạ với người đọc Việt Nam. Sang Pháp cùng mẹ từ năm 14 tuổi, tiếp thu và học tiếng Pháp còn thuần thục hơn cả tiếng mẹ đẻ, viết hàng chục tác phẩm bằng tiếng Pháp, không ít trong số đó đã được nhận giải thưởng danh giá của giới văn chương Pháp (Giải thưởng tài năng, 1990, Giải văn chương sáng tạo 1993, Giải Fénéon cho tác phẩm Hồi tưởng, Giải Reneaudot Poche, vào chung khảo giải Goncourt (1997), Giải Fémina). Dù ở xa đất nước, khi nói về vùng đất sinh thành của mình, nhưng Linda Lê luôn bộc bạch chân thực: “Tôi hy vọng tìm lại các dấu vết của quá khứ tôi, cái thời tôi còn là một cô bé học sinh, thời tôi hay đi dạo với cha tôi. Dù thế nào đi nữa thì Việt Nam vẫn là mảnh đất của tuổi thơ tôi ngay cả khi tôi đã rời đất nước được 30 năm”.
Nữ văn sĩ cuối cùng, người có khó khăn và trắc trở nhiều nhất trong cuộc hành trình viết bằng tiếng Pháp, đồng thời cũng là người duy nhất trong nhóm Ngũ Long sống ngoài nước Pháp, đó là Kim Thúy. Bà sinh năm 1968, tên thật là Nguyễn An Tĩnh, định cư cùng gia đình tại Canada sau một chuyến vượt biên năm 1979. Từng làm rất nhiều nghề: luật sư, phiên dịch, giảng dạy ngôn ngữ…, nhưng giờ đây bà dành nhiều thời gian hơn cho việc viết văn, sau khi cuốn tiểu thuyết dưới hình thức tự truyện, Ru, ra đời với thành công vang dội (đến nay đã được dịch ra gần 20 thứ tiếng). Cũng chính nhờ Ru, Kim Thúy đã được trao tặng và đề cử nhiều giải thưởng cao quý từ các Hiệp hội Văn học nghệ thuật Pháp, Canada, Thụy Điển. Một điều đặc biệt khác, tiểu thuyết của bà tuy viết bằng tiếng Pháp, nhưng nhan đề vẫn giữ nguyên tiếng Việt (Ru, Mãn, Vi). Vẻ đẹp tâm hồn Việt vẫn thấm đậm qua từng dòng chữ Pháp trong các cuốn tiểu thuyết của bà. Không chỉ trong trang viết, mà ở ngoài đời, nếu ai đó có được may mắn gặp gỡ và trò chuyện với người phụ nữ này, cảm nhận trước tiên bao giờ cũng là sự đôn hậu và những tiếng cười luôn nở trên môi. Nhà văn Nguyễn Phan Quế Mai đã từng viết về Kim Thúy: “Cái dấu sắc nhỏ nhoi trên tên chị giữa trang báo tràn đầy những chữ tiếng Anh, và trên bìa quyển Ru in cùng bài báo, dường như là một bông hoa kiêu hãnh khẳng định chị là người Việt Nam, là một phần không thể tách rời của dải đất hình chữ S”; và nữa: “Chị Kim Thúy khẳng định với tôi rằng, nếu không được sống và cống hiến ở quê hương, chị đã không thể viết Ru, Mãn và Vi. Những năm tháng ở Hà Nội và cả sài Gòn cho chị những trải nghiệm rõ ràng nhất về những nét tinh túy trong văn hóa và cách sống của người Việt, để những quan sát ấy sau này sống động trong từng trang viết”. (Báo Người đô thị, 22/2/2019)…
Các nhà văn nữ gốc Việt viết bằng tiếng Pháp, mỗi người đều mang phong cách riêng độc đáo: Kim Lefvre với cách kể chuyện cuốn hút, Anna Moi đậm đặc nữ tính, Linda Lê sâu sắc, Kim Thúy thi ca và trữ tình, Trần Thị Hảo dung dị và cuốn hút. Tất cả họ đã dệt nên tấm hoa văn rực rỡ sắc mầu trong dòng văn chương viết bằng tiếng Pháp của Việt Nam. Họ đã thực sự “viết bằng tiếng Pháp, nhưng không viết tiếng Pháp”, góp phần tạo nên một nền văn chương đa sắc mầu trong thế giới văn chương toàn cầu hóa hiện nay.
Báo Văn nghệ 2019