Sáng tác

Thế lưỡng nan của giải Nobel văn chương

Thỉnh Du
Văn học nước ngoài 09:27 | 10/10/2025
Baovannghe.vn- Dường như để tránh khỏi chỉ trích như “dĩ Âu vi trung” hay phân biệt giới tính, giải thưởng Nobel văn chương những năm qua cho thấy nhiều nỗ lực cân bằng xuất thân hay thậm chí giới tính của tác giả được vinh danh.
aa
Thế lưỡng nan của giải Nobel văn chương

Dường như để tránh khỏi chỉ trích như “dĩ Âu vi trung” hay phân biệt giới tính, giải thưởng Nobel văn chương những năm qua cho thấy nhiều nỗ lực cân bằng xuất thân hay thậm chí giới tính của tác giả được vinh danh. Động thái này, đổi lại, mang đến những phàn nàn mới: hàm lượng “phẩm chất văn chương” còn lại bao nhiêu trong công thức xét giải của Ủy ban Nobel? Loay hoay xoay xở đủ cách, tranh cãi vẫn chưa bao giờ tránh mặt Giải thưởng.

Những kỷ nguyên Nobel và một lịch sử của quên lãng

Tranh cãi vốn dĩ đến từ một sự thật đơn giản: Kỳ vọng nhiều thì cũng dễ thất vọng luôn. Đa số công chúng đều xem Nobel Văn chương là vinh dự lớn lao, không chỉ đối với cá nhân tác giả, mà còn gắn với vị thế quốc gia trên bản đồ văn học thế giới và lòng tự hào dân tộc. Những pho sách bìa da mạ vàng (thường chưa được lật giở) tuyển tập tác phẩm của Albert Camus, Gabriel García Márquez, William Faulkner, Samuel Beckett hay Yasunari Kawabata - những vị thần ngự trên đỉnh Olympus văn chương - là món nội thất sang trọng của giới tinh hoa. Giải thưởng do đó phải là sự công nhận nghiêm cẩn mang tầm quốc tế.

Nhưng nhìn lại lịch sử 125 năm của giải thưởng này có thể khiến ta nghĩ khác. Trong kho tàng Nobel đồ sộ đó, chẳng khó mà tìm những cái tên không mấy quen thuộc, dẫu bạn có là một mọt sách đích thực. Kể cả người đầu tiên nhận giải Nobel văn chương đầu tiên vào năm 1901, nhà thơ và tiểu luận gia người Pháp Sully Prudhomme, cũng không còn được biết đến rộng rãi.

Không hiếm tác giả rất được hâm mộ và trọng vọng tại quê nhà, song cũng dần rơi vào quên lãng và ít được nhận diện trên trường quốc tế, nhiều tác phẩm vẫn chưa được dịch, còn số khác thì mãi vẫn không thấy tái bản. Chiến thắng Nobel, vinh dự văn chương quốc tế danh giá nhất, không đảm bảo họ sẽ được công nhận hay trở thành bất tử như hằng ao ước.

Một lý do khả dĩ khiến nhiều tác giả đoạt Nobel bị lãng quên chính là hành trình tiến hóa của giải thưởng theo thời gian, theo giáo sư người Tây Ban Nha Juan Bravo, tác giả của Breve historia de los Premio Nobel de Literatura (tạm dịch: Lược sử giải thưởng Nobel văn chương, xuất bản năm 2022). Nhìn về lịch sử càng xa của giải Nobel, càng thấy nhiều cái tên xa lạ. Thời gian đã sàng lọc và phủ lấp một lớp bụi, dần dà xóa nhòa ký ức về họ. Ông cho rằng vài năm sau Thế chiến thứ nhất, giải thưởng vẫn còn đậm tính địa phương cục bộ: 20 khôi nguyên Nobel văn chương đầu tiên là những tên tuổi kém nổi bật, chỉ có vài ngoại lệ như Kipling (1907), Tagore (1913) và có lẽ cả Selma Lagerlöf (1909).

Giải thưởng trở nên cởi mở bắt đầu từ thập niên 1920 hậu Đệ nhất Thế chiến, nhưng rồi sau Đệ nhị Thế chiến, lại trở về hướng nội, đặc biệt từ khi Jean-Paul Sartre thẳng thừng từ chối nhận giải vào năm 1964. Trong thế kỷ 20, 80% khôi nguyên Nobel là công dân Mỹ, Canada hay châu Âu, trong khi châu Phi, châu Á và phần còn lại của châu Mỹ chỉ chiếm 20%. Thú vị thay, chưa từng có ai sinh ra ở châu Đại dương thắng giải Nobel văn chương (trường hợp Patrick White đoạt giải năm 1973: ông là công dân Úc có bố mẹ người Úc nhưng sinh ra ở London và từ năm 13 tuổi thụ hưởng nền giáo dục Anh).

Thập niên 1990 chứng kiến một giai đoạn “toàn cầu hóa” bắt đầu với thi sĩ người Mexico Octavio Paz. Nobel văn chương liên tục xướng tên những những tác giả đến từ khắp nơi trên thế giới. Họ ít được biết không phải vì thiếu khuyết tài năng văn chương hay chưa được thời gian thử thách, mà có lẽ chủ yếu vì họ đến từ những miền đất xa xôi (so với các nước Tây phương), và viết bằng những ngôn ngữ xa lạ. Giải thưởng trao cho Wole Soyinka người Nigeria (1986), Cao Hành Kiện (2000) và Mạc Ngôn (2012) người Trung Quốc, và Abdulrazak Gurnah (2021) người Tanzania khiến cộng đồng văn chương bối rối và báo giới phải lùng sục đua tranh mới tìm được thông tin.

Giới thiệu những tên tuổi mới, giải thưởng Nobel đã mở rộng biên giới văn chương của các xã hội Tây phương, thách thức định kiến dĩ Âu vi trung. Trong những thập niên gần đây, nhiều phụ nữ đoạt giải hơn, trong khi 93% người thắng giải là nam giới tính đến năm 1990 - thường là nam giới trung niên phương Tây. Dù người châu Âu và châu Mỹ vẫn áp đảo, họ vẫn chiến thắng chỉ 66% giải thưởng trong 15 năm qua. Tuy nhiên, chẳng có gì đảm bảo rằng những khôi nguyên đa dạng gốc gác này sẽ không rời vào sự quên lãng của văn chương, như rất nhiều trường hợp trước đây.

Trong khi nhiều người đoạt giải đã bị độc giả lãng quên, thì có những tác giả xứng đáng đã để lại di sản lâu dài lại bị Viện Hàn lâm Thụy Điển bỏ qua, điển hình là những tượng đài được sùng kính như Vladimir Nabokov hay Philip Roth. Trường hợp nhà văn hàng đầu Tây Ban Nha Javier Marías cũng là một dấu hỏi lớn. Ông hội đủ mọi yếu tố để thắng Nobel: một lượng đồ sộ tác phẩm dịch sang nhiều ngôn ngữ. Bravo lấy ví dụ năm tiểu thuyết gia kinh điển của thế kỷ 20 - Marcel Proust, James Joyce, Franz Kafka, Williams Faulkner và Virginia Woolf - thì chỉ độc có Faulkner là được xướng tên vào năm 1949. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, trong số này thì thuở sinh thời, các tác phẩm quan trọng nhất của Franz Kafka đều chưa xuất bản, còn James Joyce và Virginia Woolf hầu như chỉ được giới phê bình và tinh hoa quan tâm, trong khi Marcel Proust cũng chẳng mấy tiếng tăm bên ngoài biên giới Pháp.

Mỗi lần giải thưởng thường niên được công bố, lại thổi bùng những tranh cãi không thể tránh khỏi, tiếp dầu cho những tranh luận và ý kiến nóng hổi. Có người cho rằng giải thưởng nên công nhận văn nghiệp của những tác giả đã chứng minh giá trị tác phẩm của mình. Javier Aparicio Maydeu, giáo sư ngôn ngữ Tây Ban Nha và văn học so sánh ở Đại học Pompeu Fabra (Tây Ban Nha), nói: “Những giải thưởng được trao hiện nay với nhằm khám phá những tài năng mới, tôi không nghĩ điều này tương ứng với ý định ban đầu của Alfred Nobel”.

Trái lại, cũng có người cho rằng những tên tuổi ít tiếng tăm sẽ gia tăng chiều sâu và độ đa dạng. “Văn chương là phương tiện để chia sẻ tiếng nói và văn hóa, nên tôi tin rằng chuyện giải thưởng Nobel có thể nới rộng biên giới của chúng ta là một điều tích cực” là ý kiến của giáo sư văn chương ở Đại học Complutense - Cristina Oñoro.

Thế lưỡng nan của người cầm cân nảy mực

Thế lưỡng nan của giải Nobel văn chương
Nhà văn Jon Fosse (Nobel văn chương 2023)

Ra đời từ năm 1901 theo di nguyện của nhà hóa học người Thụy Điển Alfred Bernhard Nobel (1833-1896), ban đầu gồm các giải thưởng về vật lý, hóa học, y sinh, văn chương và hòa bình, sau đó có thêm kinh tế từ năm 1969, trải qua một lịch sử dài nhiều thăng trầm, đến nay giải thưởng Nobel vẫn được xem là sự công nhận danh giá nhất trong khuôn khổ lĩnh vực tương ứng đối với bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào thụ nhận. Giải thưởng thường niên này trao cho những ai “trong năm trước đó, đã mang đến lợi ích to lớn cho nhân loại”, và cụ thể với văn chương, Nobel kỳ vọng đó là người “den som inom litteraturen har producerat det utmärktaste i idealisk riktning” hay “produced the most outstanding work in an ideal direction” (theo bản dịch trên website chính thức), tức đã “cho ra đời tác phẩm xuất sắc nhất theo khuynh hướng lý tưởng”. Tuy nhiên, từ idealisk, khi dịch sang tiếng Anh có thể là “ideal” hoặc “idealist”, và hai cách diễn giải này hàm nghĩa khác nhau. Dường như đã có giai đoạn Ủy ban Nobel hiểu nó theo nghĩa “idealistic” - tức giải thưởng trao cho các nhà văn có tác phẩm phản ánh lý tưởng cao cả, giàu tính nhân văn và chiều sâu tinh thần hay triết học. Nôm na có thể gọi là kiểu loại nghệ thuật “vị nhân sinh”. Nhưng càng về sau, giới phê bình càng cho rằng cách hiểu này là hạn hẹp. Đến giữa thế kỷ 20, Viện Hàn lâm đã chuyển hướng hiểu khái niệm trên theo nghĩa rộng là tác phẩm có giá trị văn chương cao, phản ánh điều kiện nhân sinh phổ quát, tức dung hòa với yếu tố “vị nghệ thuật”. Song song, cùng với biến chuyển của thời đại, các giải thưởng Nobel cũng ngày càng trở nên toàn cầu hóa.

Thế lưỡng nan của giải Nobel văn chương
Nhà văn Han Kang (Nobel văn chương 2024). Nguồn ảnh: NOBEL PRIZE

Có hai nghịch lý đặt Nobel văn chương vào thế lưỡng nan. Một là, giải thưởng này luôn được xem là trao cho văn nghiệp của tác giả - thay vì gắn với một tác phẩm riêng lẻ, như học thuyết hoặc khám phá hoặc phong trào đấu tranh cụ thể trong các hạng mục khác. Do đó khó lòng xác định người đoạt giải đơn thuần dựa trên thành tựu trong vòng một năm trước đó - mà thường là những tên tuổi chí ít cũng có chút tiếng tăm hoặc từng được những giải thưởng trong phạm vi quốc gia và khu vực, được dịch sang ngôn ngữ khác và giới thiệu đến bạn bè quốc tế.

Hai là, Nobel văn chương là “một thiết chế khởi sinh từ lý tưởng Âu châu Tây phương song luôn luôn kỳ vọng có thể công nhận và vinh danh những thành tựu văn học toàn cầu”. Mâu thuẫn này phản ánh bản chất phức tạp của bức tranh văn chương thế giới rộng lớn. Khác với những giải thưởng như Booker hay Goncourt gói gọn trong phạm vi ngôn ngữ hoặc văn hóa nhất định, giải thưởng Nobel đặt mình vào vị trí trọng tài thẩm định phẩm cách của văn chương toàn cầu.

Giữa vinh danh tác phẩm đã được dịch thuật rộng rãi và có được danh tiếng trên thế giới hay rọi đèn, soi sáng những tác phẩm tồn tại bên ngoài dòng chảy đã định hình trong vòng tuần hoàn văn chương toàn cầu, dường như Nobel văn chương luôn nằm ở trong một nan đề, mà lựa chọn nào cũng sẽ có người phật ý.

Không đơn thuần là một giải thưởng vinh danh văn chương

Trong một phỏng vấn gần đây thực hiện cho trang chính thức của Nobel Prize, nhà văn người Thụy Điển Steve Sem-Sandberg, thành viên của ủy ban, nhiều lần nhấn mạnh “phẩm cách văn chương” là yếu tố tiên quyết và quan yếu nhất trong quá trình lựa chọn người đoạt giải. Tuy nhiên, ông cũng thừa nhận ủy ban cũng phải cân nhắc “những yếu tố khác”, và nêu ví dụ là thời gian mà cái tên đã góp mặt trong danh sách.

Trong chúc thư, Alfred Nobel nhấn mạnh rằng giải thưởng phải được trao cho “người xứng đáng nhất” mà “không viện xét đến quốc tịch” (rằng họ có phải người Bắc Âu hay không). Lúc viết những dòng này, hẳn ông đang hình dung một giải thưởng gỡ bỏ được mọi rào cản địa lý. Nhưng mặc cho tác giả có hướng đến những chủ đề phổ quát, tác phẩm của họ vẫn sẽ luôn gắn chặt bối cảnh nguồn gốc văn hóa, lịch sử và ngôn ngữ. Những khía cạnh quốc gia và dân tộc này ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình tạo tác, tiếp nhận, diễn giả và định vị tác phẩm trong nền văn chương toàn cầu.

Giải thưởng Nobel văn chương trao cho Han Kang năm 2024 được cho là một chiến thắng “lịch sử”, nhưng những lời ca tụng đã cho thấy (hoặc khiến cho) nó không phải là một lựa chọn đơn thuần vì những giá trị văn chương: “Nhà văn Hàn Quốc đầu tiên”, “nữ tác giả châu Á đầu tiên” nhận được vinh dự này.

Alex Taek-Gwang Lee, giáo sư ngành Nghiên cứu văn hóa tại Đại học Kyung Hee (Hàn Quốc) kể ông nhận được vô vàn tin nhắn chúc mừng, hệt như dịp Bong Joon-ho càn quét Oscar với Parasite, cảm thấy mình sống giữa “vinh hạnh quốc gia… như thể chính tôi là người đã tạo tác những áng văn xuôi đậm chất thơ được hội đồng Nobel công nhận”, dù ông chẳng dự phần gì ngoài việc có cùng quốc tịch với người được xướng tên.

Hiện tượng này là minh chứng cho thấy thành tựu văn hóa liên hệ mật thiết với căn tính, từ đó mà chiến thắng cá nhân bỗng là dịp ngợi ca và tự hào tập thể. “Tôi nhận ra rằng văn chương không thể tồn tại trong chân không, tách biệt khỏi nền tảng chính trị-kinh tế của bối cảnh thế giới hiện đại. Theo bản năng độc giả khu biệt địa lý của tác phẩm văn chương theo ranh giới quốc gia dân tộc, gắn chúng với đất nước xuất thân. Khía cạnh địa hạt lãnh thổ này đã thiết lập nền tảng cho cả việc tạo tác lẫn đón nhận văn chương”, giáo sư Lee viết.

Tính chính trị của giải thưởng còn bộc lộ rõ nét hơn, qua nhiều quyết định trao hay không trao Nobel đầy khó hiểu từ phía Ủy ban, và thậm chí qua cả quyết định từ chối nhận giải từ phía người được xướng tên - trường hợp của Jean-Paul Sartre hồi năm 1964.

Trong thư từ chối nhận giải, Sartre đưa ra hai lý do. Đầu tiên, ông nói rằng một người viết chỉ nên được gọi bằng tên - rằng danh xưng “người đoạt giải Nobel” chẳng hơn gì một trò bịp hòng trục lợi từ tiếng tăm của tác giả. Ông nhấn mạnh nhà văn phải kháng cự việc bị gán với một tổ chức, ngay cả khi điều đó mạo danh dưới vỏ bọc công nhận danh giá. Sartre tin rằng giữ vững sự độc lập là thiết yếu để bảo vệ liêm trực nghệ thuật và biểu đạt sáng tạo chân thực. Lý do thứ hai là giải thưởng văn chương danh giá nhất Tây phương này sẽ có thể dẫn đến “diễn giải sai lệch” về mặt chính trị. “Mối thiện cảm tôi dành cho những nhà cách mạng Venezuela chỉ ràng buộc cá nhân tôi, còn khi khôi nguyên Nobel Jean-Paul Sartre ủng hộ kháng chiến của người Venezuela thì ông ta đang ràng buộc cả giải thưởng Nobel với tư cách một tổ chức”, Sartre viết.

Cuộc phỏng vấn năm 1976 còn cho thấy tác giả người Pháp nhìn nhận giải thưởng này như một nỗ lực nhằm vô hiệu hóa các hoạt động chính trị của ông, bằng cách ban cho ông sự thừa nhận từ giới chính thống - một màn hòa giải bịa tạo mà ông đặc biệt phản đối. Phản ứng của ông cho thấy ông không xem giải thưởng đơn thuần là một vinh dự để chấp thuận hay khước từ, mà là một cơ chế mạnh mẽ nhằm khiến công chúng xét lại toàn bộ bối cảnh văn nghiệp và lập trường chính trị của ông.

Quay trở lại trường hợp của Han Kang: Nobel văn chương trao cho cô còn phản ánh sự trỗi dậy của Hàn Quốc trong nền công nghiệp văn hóa toàn cầu - hiện tượng đã từng bước được công nhận bởi nhiều sự kiện trước đó. Một mặt, nó cho thấy sự công nhận quốc tế dường như không tương quan với những kỳ vọng truyền thống về “văn chương quốc dân” ở chính đất nước của cô. Báo giới Hàn Quốc nhiều năm “cắm rễ” ở nhà các tác giả mà họ văn đàn “chọn mặt gửi vàng”, khấp khởi hy vọng bắt được khoảnh khắc lịch sử, nhưng ngày 10/10/2024, chẳng mấy ai túc trực gần nơi ở của Han Kang.

Mặt khác, đây lại chính là quả ngọt của quá trình chủ động quảng bá văn chương. Những nỗ lực do chính phủ tài trợ đã phản ánh khao khát tạo dựng chỗ đứng để văn chương Hàn Quốc được công nhận trên trường quốc tế. “Đam mê Nobel văn chương của Hàn Quốc đại diện cho một hiện tượng văn hóa đã vượt xa khỏi khuôn khổ thành tựu văn chương”, giáo sư Lee nhận định.

Bản dịch The Vegetarian (Người ăn chay) và Human Acts (Bản chất của người) của Deborah Smith có lẽ đã không bao giờ tiếp cận được công chúng toàn cầu nếu thiếu đi sự hậu thuẫn tài chính và thể chế từ Viện Dịch thuật văn học Hàn Quốc (LTI Korea). Tuy nhiên, lập trường này lại bộc lộ một nghịch lý mà văn giới Hàn Quốc dường như không muốn đối diện: trong niềm háo hức khẳng định thành công của Han Kang như một thắng lợi của hạ tầng văn học quốc gia, họ vô tình thu hẹp tầm vóc thành tựu nghệ thuật của bà thành kết quả của chính sách văn hóa nhà nước. Điều này hàm nghĩa văn chương bị sùng bái như một công cụ nâng cao uy tín dân tộc, thay vì được trân trọng như một hình thái nghệ thuật.

Năm 2025 này, Gerald Murnane đứng đầu danh sách đặt cược Nobel của một nhà cái uy tín hàng đầu, sau nhiều năm góp mặt. Nếu cái tên ấy lại được gọi vào ngày 9/10 đến, thì dự đoán kia có lẽ cũng chẳng phải hoàn toàn là ăn may: “đã đến lượt” của một nam nhà văn người Úc nhiều thành tựu, tuổi lại còn ngoài 80.

Giả sử 1¼ thế kỷ qua có một thuật toán đưa ra được những lựa chọn công bằng và chính xác nhất cho giải thưởng văn chương danh giá nhất toàn cầu, thì nhân loại có đủ sức mà đọc, mà nghiền ngẫm, thẩm thấu và tưởng nhớ hết 124 tác giả tuyền những tinh hoa? Vậy nên, dẫu kết quả năm nay có ra sao, dường như đó vẫn là một người thực sự đã đóng góp cho kho tàng chữ nghĩa. Thời gian rồi sẽ quyết định họ là số ít đi vào cửa “tượng đài”, hay bước vào hàng ngũ của số đông “quên lãng”. Ước mơ Nobel hãy cứ nên mơ, nhưng vui cũng đừng vui quá, mà buồn cũng chớ buồn lâu.

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn
Mâm trên mâm dưới - Truyện ngắn của Trần Quốc Hoàn

Mâm trên mâm dưới - Truyện ngắn của Trần Quốc Hoàn

Baovannghe.vn - Dòng họ Vũ quyết xây lại nhà thờ. Nghe đâu chi phí gần hai chục tỉ, nhất định phải hơn đứt cái nhà thờ mười bốn tỉ rưỡi mới khánh thành của họ Phan. Cả làng xôn xao. Người mừng, người lo. Mừng thì ít mà lo thì nhiều.
Nguyễn Du và tiếng Nghệ

Nguyễn Du và tiếng Nghệ

Baovannghe.vn - Xứ Nghệ là tên gọi quen thuộc chỉ vùng đất thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay. Cách gọi này chắc có từ khi cả vùng đất đều thuộc trấn Nghệ An, và sau năm 1831, khi đã có tỉnh Hà Tĩnh thì vẫn được dùng cho đến ngày nay.
Xuyên đêm chở sách mới về vùng lũ

Xuyên đêm chở sách mới về vùng lũ

Baovannghe.vn - Khi mặt trời còn chưa ló rạng sau những ngôi nhà đổ nát bởi trận lũ lịch sử, chuyến xe chở 400 thùng sách giáo khoa mới của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam (NXBGDVN) đã vượt hàng trăm cây số, xuyên đêm để kịp về với học sinh xã Hòa Thịnh (tỉnh Đắk Lắk).
Thông cáo báo chí số 35 Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

Thông cáo báo chí số 35 Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

Baovannghe.vn - Thứ Năm, ngày 4/12/2025, ngày làm việc thứ 35, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV diễn ra tại Nhà Quốc hội, Thủ đô Hà Nội.