Sáng tác

Lang thang - Đứng yên. Truyện ngắn của László Krasznahorkai

László Krasznahorkai
Văn học nước ngoài 09:51 | 17/10/2025
Baovannghe.vn- Tôi phải rời khỏi nơi này, bởi đây không phải nơi mà ai cũng có thể sống, cũng chẳng đáng ở lại, vì nơi đó - cảm giác nặng nề không chịu nổi, lạnh lẽo, buồn bã, hoang hoải và chết chóc-
aa
Lang thang - Đứng yên. Truyện ngắn của László Krasznahorkai
Minh họa Ngô Xuân Khôi

László Krasznahorkai là tiểu thuyết gia và nhà viết truyện ngắn người Hungary, được xem là một trong những giọng văn độc đáo và ám ảnh nhất của văn học châu Âu đương đại. Ông sinh ngày 5 tháng 7 năm 1954 tại Gyula, Hungary, tốt nghiệp ngành Ngữ văn Hungary - Đức tại Đại học Szeged.

Tác phẩm đầu tay Sátántangó (Vũ điệu quỷ Satan) xuất bản năm 1985 lập tức gây tiếng vang lớn và sau đó được đạo diễn Béla Tarr chuyển thể thành phim, trở thành kiệt tác điện ảnh thế giới. Một số tiểu thuyết của László Krasznahorkai đã được dịch sang tiếng Việt: Chiến tranh & chiến tranh, Vũ điệu quỷ Satan…

Năm 2025, László Krasznahorkai trở thành chủ nhân giải Nobel văn học vì đã tạo nên một thế giới văn chương đầy u thẳm và mê hoặc “thể hiện tầm nhìn sâu sắc giữa thời đại của nỗi sợ hãi về ngày tận thế, tái khẳng định sức mạnh của nghệ thuật”.

- nơi tôi buộc phải thoát ra, mang theo chiếc vali, trước hết là vali, chỉ cần hai chiếc là đủ, nhét hết mọi thứ vào, bấm khóa lại, rồi chạy vội đến tiệm đóng giày, và đóng đế giày mới - tôi đã đóng, rồi lại đóng thêm lần nữa, giày là thứ cần thiết, một đôi giày tốt - dù sao thì, chỉ một đôi giày tốt và hai chiếc vali là đủ, với chừng đó, ta có thể lên đường, ít nhất là trong giới hạn có thể xác định được - bởi đây là bước đầu tiên - xác định chính xác xem ta đang ở đâu ngay lúc này; vâng, chính thế, cần phải có một năng lực nào đó, một tri thức thực tế để ta có thể xác định được vị trí chính xác của mình - không chỉ là cảm giác phương hướng mơ hồ, hay một thứ linh tính huyền bí sâu thẳm trong tim - mà phải là sự hiểu biết rõ ràng, nhờ đó ta mới có thể chọn đúng hướng đi; ta cần có một cảm quan nào đó, như thể đang nắm trong tay một loại thiết bị định hướng đặc biệt, một thiết bị giúp ta xác tín: vào thời điểm này, ta đang ở đây, ở chính điểm này trong không gian, nằm đúng tại một giao lộ vốn dĩ không thể chịu nổi, lạnh lẽo, buồn bã, hoang hoải và chết chóc, một giao lộ buộc người ta phải rời đi, bởi đây không phải nơi con người có thể tồn tại, hay ở lại, một người - tại điểm không gian ẩm thấp, tối tăm và bất an này - không thể làm gì khác ngoài việc nói: hãy rời đi, và rời đi ngay bây giờ, ngay lập tức đừng do dự, đừng ngoảnh lại, chỉ việc bước theo con đường đã định sẵn, với ánh nhìn kiên định về phía trước, ánh nhìn kiên định, dĩ nhiên, vào đúng hướng, mà việc lựa chọn phương hướng dường như cũng không quá khó khăn khổ sở, trừ khi, dĩ nhiên, người ta chợt nhận ra rằng chính cái tri thức thực tiễn ấy, cái cảm quan đặc biệt ấy - khi nó dò tìm và xác định được các tọa độ chạy xuyên qua nỗi buồn và cái chết - bỗng tuyên bố rằng: trong “những hoàn cảnh thông thường,” ta thường nói rằng từ đây, ta phải đi theo hướng này hoặc hướng kia, nói cách khác, ta khẳng định hướng này là đúng, hoặc hướng hoàn toàn ngược lại mới đúng; nhưng đôi lúc, có những cái gọi là “hoàn cảnh bất thường,” chính cảm quan ấy, thứ tri thức thực tiễn vốn được coi trọng ấy, lại tuyên bố hướng mà ta đã chọn là tốt, nó bảo ta: cứ thẳng tiến, thế là được, theo hướng này, tốt lắm - và đồng thời, chính cảm quan ấy cũng bảo rằng hướng ngược lại cũng tốt không kém, chà, và chính khi đó, trạng thái được gọi là lang thang - đứng yên bắt đầu xuất hiện, bởi đây chính là con người ấy, với hai chiếc vali nặng trĩu trong tay và một đôi giày đã đóng đế tuyệt hảo, và hắn có thể rẽ sang phải, như thế cũng chẳng có gì sai, và hắn cũng có thể rẽ sang trái, và như thế, dĩ nhiên, cũng chẳng phạm phải sai lầm nào, tới nỗi hai hướng hoàn toàn đối nghịch ấy, đều được cái tri giác thực tiễn bên trong chúng ta xem là hoàn toàn ổn thỏa, và điều đó, quả thực cũng có lý do chính đáng, bởi cái tri thức thực tiễn ấy, khi chỉ ra hai hướng hoàn toàn trái ngược, giờ đây đã vận hành trong một khung quy chiếu được phán xét bởi dục vọng, nghĩa là “rẽ phải” cũng tốt chẳng kém gì “rẽ trái,” bởi cả hai hướng này, xét theo ham muốn của ta, đều hướng về nơi xa nhất, nơi cách biệt nhất so với chỗ này; điểm đến cần tới, theo bất kỳ hướng nào, vì thế không còn được quyết định bởi tri thức thực tiễn, cảm quan, hay năng lực, mà chỉ còn bởi dục vọng, và chỉ bởi dục vọng mà thôi - nỗi khao khát của con người không chỉ muốn được đẩy ra xa nhất khỏi vị trí hiện tại của mình, mà còn hướng tới nơi hứa hẹn nhất, nơi mà hắn có thể được an tĩnh, bởi điều quan trọng nhất, an tĩnh, hẳn rồi, đó luôn là điều hắn kiếm tìm trong cái khoảng cách đầy khát vọng kia, cảm giác yên bình, thoát khỏi nỗi nặng nề khủng khiếp, đau đớn, cuồng loạn, siết chặt lấy hắn mỗi khi hắn lỡ nghĩ về tình cảnh hiện tại, về điểm khởi đầu của mình, về miền đất xa lạ tận cùng nơi hắn đang ở, và nơi hắn buộc phải rời đi, bởi mọi thứ ở đây đều không thể chịu nổi, lạnh lẽo, buồn bã, hoang hoải và chết chóc, nhưng từ nơi ấy, ngay trong khoảnh khắc đầu tiên, hắn gần như không thể cất bước, vì cú sốc khi nhận ra - và hắn thực sự kinh hãi - khi nhận ra tứ chi dường như đã bị trói chặt, chính bởi cái tri giác thực tiễn hoàn hảo ấy mà tứ chi hắn bị trói chặt, nó chỉ về hai hướng đối nghịch cùng lúc, bảo hắn: cứ đi đi, đó là con đường đúng, nhưng làm sao một người có thể rời đi theo hai hướng ngược nhau cùng một lúc, đó chính là vấn đề, và vì thế, câu hỏi ấy vẫn còn ở đó, hắn đứng yên, như thể bị neo chặt ở đây, như một con thuyền ọp ẹp bị neo lại giữa dòng, hắn đứng lom khom dưới sức nặng của hai chiếc vali nặng trĩu, hắn đứng yên, không nhúc nhích, và trong tư thế ấy, đứng yên như thế, hắn bắt đầu khởi hành vào thế giới hoang dã, theo một hướng - hướng nào cũng được, điều đó chẳng còn quan trọng - và hắn không cử động dù chỉ một li, nhưng ngay khi ấy, hắn đã đi rất xa, và cuộc lang thang của hắn trong thế giới hoang dã đã bắt đầu, trong khi thực tế hắn vẫn bất động, thì dáng người khom xuống của hắn, gần như một pho tượng, lại khắc sâu vào sự bất khả rời bỏ nơi này; hắn xuất hiện trên mọi con đường: ban ngày người ta thấy hắn ở phương Bắc, người ta biết đến hắn ở châu Mỹ và người ta nhận ra hắn ở châu Á, người ta gặp hắn ở châu Âu và người ta tìm ra hắn ở châu Phi, hắn băng núi, vượt đèo, hắn đi, và đi mãi, không dừng cuộc lang thang dù chỉ một đêm, hắn chỉ nghỉ chốc lát, một giờ thôi, nhưng ngay cả khi đó, hắn cũng ngủ như loài thú, như người lính, không hỏi han điều gì, cũng chẳng nhìn ngó ai; người ta hỏi hắn: anh đang làm gì vậy, gã điên kia, anh định đi đâu với ánh mắt ám ảnh ấy? ngồi xuống đi, nghỉ một chút, nhắm mắt lại và ở đây qua đêm; nhưng người này không ngồi xuống và cũng không nghỉ, hắn không nhắm mắt, không ở lại qua đêm, bởi hắn vốn không bao giờ ở lại lâu, hắn nói - nếu như có thể nói - rằng hắn phải đi tiếp, thật vô ích khi hỏi hắn đi đâu, bởi hắn sẽ không bao giờ tiết lộ với ai đích đến của cuộc hành trình quẫn bách này, bởi chính hắn cũng không biết, điều mà có lẽ hắn từng biết vào một thời điểm nào đó, khi vẫn còn đứng với hai chiếc vali nặng trĩu trong tay, sẵn sàng bước vào thế giới hoang dã; hắn đã khởi hành, nhưng cuộc hành trình ấy thực ra không phải là một cuộc hành trình, dọc đường đi, nó chẳng thể được xem là một cuộc hành trình, hắn dường như chỉ là một bóng ma đáng thương, một hình hài mờ nhạt mà chẳng ai còn biết sợ, chẳng ai lấy hắn ra để dọa trẻ con, tên hắn cũng chẳng được lầm rầm vang lên trong các đền thờ để cầu cho hắn tránh xa các thành phố, cho nên nếu hắn xuất hiện đâu đó, thì mọi người chỉ hờ hững gạt đi: ồ, lại hắn nữa à, bởi hắn lại xuất hiện, hết lần này đến lần khác, ở châu Mỹ và ở châu Á, ở châu Âu và ở châu Phi, và người ta bắt đầu có cảm giác rằng hắn thực ra chỉ đang đi vòng quanh, xoay tròn quanh quả địa cầu như kim giây của một chiếc đồng hồ, và nếu lúc đầu, sự xuất hiện của hắn ở đây hay kia còn có chút gì đáng chú ý, như thể một bóng ma đáng thương cũng mang một dáng vẻ đặc biệt, thì khi hắn xuất hiện lần thứ hai, thứ ba, hay thứ tư, người ta chỉ xua tay, chẳng ai còn quan tâm nữa, đến mức càng hiếm khi người ta cố hỏi hắn điều gì hay mời hắn ở lại, hoặc đặt trước mặt hắn một chút thức ăn, và theo thời gian, chẳng còn ai vui thích khi có hắn trong nhà, bởi ai mà biết được - họ thì thầm với nhau - rốt cuộc chuyện gì đang xảy ra ở đây, mặc dù rõ ràng họ đã chán ngán, đã hoàn toàn mất hứng thú, bởi vì hắn, khác với kim đồng hồ, chẳng chỉ ra điều gì, chẳng biểu thị điều gì, và điều khiến thế giới này khó chịu nhất - nếu thế giới này còn biết khó chịu - thì đó chính là con người này hoàn toàn vô giá trị, hắn chỉ đi, và chẳng có chút giá trị nào trong thế giới này, cho đến một thời điểm, hắn vẫn di chuyển giữa thế giới, nhưng thực ra chẳng ai còn nhận ra hắn, hắn biến mất, trên bình diện vật chất gần như bốc hơi, đối với thế giới, hắn đã trở thành hư vô; nghĩa là: người ta đã quên hắn, dĩ nhiên điều đó không có nghĩa là hắn đã rời khỏi thực tại, bởi hắn vẫn còn ở đó, vẫn bền bỉ đi lại giữa châu Mỹ và châu Á, châu Phi và châu Âu, chỉ là sợi dây liên kết giữa hắn và thế giới đã đứt gãy, và do vậy, hắn trở nên bị lãng quên, vô hình, và cùng với đó, hắn mãi mãi hoàn toàn cô độc, kể từ thời khắc đó, hắn bắt đầu nhận thấy, tại những điểm dừng khác nhau trong cuộc hành trình, có những hình bóng khác, những bản sao y hệt hắn: đôi khi, hắn đối mặt trực tiếp với những hình bóng ấy, những kẻ sao y hắn một cách hoàn hảo, như thể hắn đang soi mình trong gương; ban đầu, hắn hoảng hốt, vội vã rời khỏi thành phố hay vùng đất đó, nhưng dần dần, đôi khi hắn lại quên đi ánh nhìn của những hình bóng kỳ lạ ấy và bắt đầu quan sát họ, hắn bắt đầu tìm kiếm sự khác biệt giữa diện mạo của mình và của họ, và theo thời gian, khi số phận ngày càng thường xuyên đặt hắn trước những bản sao hoàn hảo ấy, mọi thứ dần trở nên rõ ràng hơn: những chiếc vali giống hệt nhau, cái lưng khom giống hệt nhau, mọi thứ đều giống - cách họ gồng mình chịu sức nặng, cách họ lê bước trên con đường này hay con đường khác - tất cả đều giống hệt, không chỉ là ngoại hình giống nhau, mà là một bản sao chính xác; ngay cả đôi giày cũng giống hệt, với phần đế được đóng lại một cách tinh xảo, hắn cũng nhận ra điều đó, một lần, khi bước vào một đại sảnh để uống nước, phần đế giày của họ được đóng chắc chắn chẳng khác gì của hắn, và khi ấy máu trong huyết quản hắn đông cứng, bởi hắn nhận thấy cả gian sảnh rộng lớn kia tràn ngập những kẻ giống hệt mình, hắn vội nốc cạn cốc nước, rồi hấp tấp rời khỏi thành phố và vùng đất ấy, và kể từ đó, hắn không bao giờ đặt chân vào bất kỳ nơi nào mà hắn nghi ngờ, hay linh tính rằng mình có thể gặp lại những kẻ lang thang ấy; từ đó trở đi, hắn chủ động tránh né họ, để rồi trở nên hoàn toàn cô độc, và những cuộc lang thang của hắn mất đi chính tính cuồng tín hỗn độn ban đầu; nhưng hắn vẫn tiếp tục, không mệt mỏi, và rồi một giai đoạn mới của cuộc hành trình bắt đầu, bởi hắn tin rằng chỉ bằng cách tự giam mình trong một mê cung, hắn mới có thể, trong chừng mực nào đó, tránh khỏi tất cả những bản sao chính xác ấy, và chính từ đó, những giấc mơ bắt đầu, hắn ngủ ở những nơi hoàn toàn ngẫu nhiên, vào những giờ hoàn toàn ngẫu nhiên, ngắn ngủi và chập chờn, và trong thoáng hiếm hoi của những giấc ngủ ngắn, hắn bắt đầu mơ những điều chưa từng trước đó: hắn đều mơ cùng một giấc mơ, trùng khớp đến từng chân tơ kẽ tóc, lặp đi lặp lại không ngừng, hắn mơ rằng cuộc lang thang của mình đã kết thúc - và giờ đây, trước mắt hắn là thứ gì đó như chiếc đồng hồ khổng lồ, hay một bánh xe, hay một xưởng quay, sau khi tỉnh dậy, hắn chẳng bao giờ có thể xác định chính xác nó là gì, nhưng dù sao, hắn đang đứng trước một vật thể xoay tròn, hay một tổ hợp những vật thể như thế - hắn bước vào bên trong chiếc đồng hồ, hay bánh xe, hay xưởng quay ấy, đứng ở giữa, và trong cơn mệt mỏi khôn tả, cơn kiệt quệ mà hắn đã mang suốt đời, hắn đổ sụp xuống đất như thể bị bắn, ngã nghiêng như một tòa tháp tự sập, nằm đó để cuối cùng có thể ngủ yên như một con vật kiệt sức đến chết, và giấc mơ ấy lặp lại không ngừng, mỗi khi hắn cúi đầu xuống một góc nào đó, hay tìm được một chỗ nằm tạm, hắn lại thấy cùng giấc mơ ấy, chính xác đến từng chi tiết, hết lần này đến lần khác - thế nhưng, đáng ra hắn phải thấy một điều hoàn toàn khác, nếu chỉ cần ngẩng đầu lên, chỉ một lần thôi - trong suốt cuộc lang thang tưởng chừng kéo dài hàng trăm, hàng ngàn năm ấy - chỉ một lần, ngẩng đầu lên, hắn hẳn đã thấy rằng mình vẫn đang đứng đó, với hai chiếc vali trong tay, đôi giày được đóng đế hoàn hảo trên chân, và hắn đã cắm rễ trên mảnh đất nhỏ bằng bàn chân nơi hắn đứng, không còn chút hy vọng có thể rời đi khỏi đó, bởi hắn phải đứng ở đó cho đến tận cùng thời gian, đôi tay và đôi chân bị trói trong hai hướng ngược lại cùng lúc, hắn phải đứng ở đó cho đến tận cùng thời gian, bởi nơi ấy chính là nhà của hắn, nơi ấy chính là nơi hắn được sinh ra, và nơi ấy, một ngày nào đó, hắn sẽ phải chết, ở đó, tại ngôi nhà, nơi mọi thứ đều lạnh lẽo và buồn tẻ.

Nguyễn Thị Thùy Linh

Dịch từ tiếng Anh

Chùa Mía - Thơ Hoàng Anh Tuấn

Chùa Mía - Thơ Hoàng Anh Tuấn

Baovannghe.vn- Tôi về chùa Mía chiều đông/ Chuông gieo giọt sắc giọt không xuống ngày
Lau trổ bông (2) - Thơ Nguyễn Hữu Quý

Lau trổ bông (2) - Thơ Nguyễn Hữu Quý

Baovannghe.vn- Không có cái trập trùng, cái miên man nào cả/ chỉ hơi bất ngờ mùa đông
Đối cảnh  - Thơ Nguyễn Đông Nhật

Đối cảnh - Thơ Nguyễn Đông Nhật

Baovannghe.vn- Những năm tháng ở rừng để lại trong tôi/ nhiều ánh sáng và bóng tối.
31 quốc gia và vùng lãnh thổ tham dự triển lãm “Cuộc thi Ảnh nghệ thuật Quốc tế 2025”

31 quốc gia và vùng lãnh thổ tham dự triển lãm “Cuộc thi Ảnh nghệ thuật Quốc tế 2025”

Baovannghe.vn - Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam (VAPA) tổ chức Lễ trao giải và khai mạc Triển lãm Cuộc thi Ảnh nghệ thuật Quốc tế lần thứ 13 năm 2025 tại Việt Nam (VN-25). Đồng chí Trần Thanh Lâm, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương tham dự và cắt băng khai mạc Triển lãm.
Nải chuối của Xuân Hương

Nải chuối của Xuân Hương

Baovannghe.vn - ... Bảo rằng độc giả thích nhặt lỗi thì cũng đúng nhưng có lẽ chính người viết cũng rất sợ hãi nếu có một nhầm lẫn nào đó, nhất là lỗi về những cột mốc thời gian, những sự kiện, những dữ liệu, những căn cứ, những logic....