Những năm tám mươi ấy, kí túc xá Mễ Trì vẫn còn mùi mưa ẩm và tiếng guitar gỗ bập bùng giữa hành lang. Trên tường phòng học, ai đó đã viết bằng phấn: Tình yêu đến trong đời không báo động/ Trái tim anh chưa lỗi hẹn bao giờ và bên dưới, một nét bút khác, nhỏ hơn, như lời đối đáp: Hai năm tình lận đận/ Hai đứa cùng xanh xao.
Ít ai để ý rằng, những câu thơ ấy được viết bởi hai nhà thơ cùng tuổi Nhâm Thìn 1952 - một người ở chiến trường đạn lửa Quảng Trị, một người trong cơn mưa Biên Hòa.
|
Nhưng những câu thơ ấy đã đi theo chúng tôi suốt tuổi trẻ. Trong những đêm cúp điện, chúng tôi chép lại vào sổ tay, thắp nến đọc cho nhau nghe, và tin rằng: nếu có hai cách để sống qua tuổi hai mươi, thì đó là cách của Hoàng Nhuận Cầm - tin vào ánh sáng, và cách của Nguyễn Tất Nhiên - tin vào nỗi buồn.
Từ những bức tường phấn trắng ấy, tôi đã bắt đầu yêu thơ của hai người như yêu chính tuổi trẻ của mình - một tuổi trẻ vừa rực rỡ, vừa mong manh, vừa tin, vừa tuyệt vọng.
Và cho đến hôm nay, khi đã đi qua nửa đời người, mỗi lần đọc lại họ, tôi vẫn thấy căn phòng Mễ Trì năm nào - ánh nến vàng, gió đêm mỏng và hai giọng thơ - hai số phận - vang lên, hòa vào nhau, như hai nửa linh hồn của một thế hệ từng tin rằng thơ có thể cứu rỗi tuổi trẻ.
Hai nhà thơ cùng tuổi. Một người viết giữa bom đạn, một người viết giữa tan vỡ. Một người ra trận với ngọn lửa của tuổi hai mươi, một người ra đời với vết thương của tuổi hai mươi. Và cả hai đều chọn thơ - như một cách tồn tại, một cách nói với đời rằng: “Chúng tôi đã yêu.”
Hoàng Nhuận Cầm - đứa con của Hà Nội có tiếng ve, có mùa phượng, có bầu trời ướt sương và những lá thư không bao giờ gửi.
Nguyễn Tất Nhiên - đứa con của Biên Hòa buồn, của nhà thờ, của cơn mưa nhỏ đi mãi không về.
|
Hai nửa của một thế hệ, hai vì sao mọc lên từ cùng một trời tuổi trẻ, nhưng rọi sáng hai phía đối nghịch: ánh sáng và bóng tối, tin tưởng và hoài nghi, huyền thoại và tôn giáo.
Nếu Cầm biến tuổi học trò thành huyền thoại, thì Nhiên biến nỗi thất tình thành tôn giáo.
Một bên là:
Con ve tiên tri vô tâm báo trước
Có lẽ một người cũng bắt đầu yêu
(Hoàng Nhuận Cầm - Chiếc lá đầu tiên )
Một bên là:
Em có một đời rong xanh mơ đá
Tôi có ngàn năm say khướt hận thù
(Nguyễn Tất Nhiên - Bài thấm mệt đầu tiên)
Hai bài thơ, hai định mệnh, một ngọn đèn cắm giữa đại lộ, một ngọn nến cháy trong phòng kín, đều sáng bằng máu của chính mình.
Cầm đi qua chiến tranh với nụ cười của người tin tưởng, mang theo trong ba lô những bài thơ có mùi phấn trắng và hoa phượng hồng.
Trong Cho Phượng năm xưa, ông viết:
Và bài ca không cần hát ra lời
Tiếng chim hót ngay trên nòng đại bác
Một ánh mắt không thể nào đổi khác
Phượng vẫn hồng như máu những năm xưa...
Còn Nhiên đi qua hòa bình với đôi mắt của kẻ hoài nghi, mang theo trong vali một trái tim tan nát và vài bản thảo không kịp gửi về. Trong Hai năm tình lận đận, ông nói nhỏ với thế gian:
Chuông nhà thờ đổ mệt
tượng Chúa gầy hơn xưa
Chúa bây giờ có lẽ
rơi xuống trần gian mưa
Một lời cầu khẩn không dành cho Chúa, mà cho chính loài người - kẻ luôn rời bỏ nhau trong cơn sợ hãi.
Thơ Cầm là lời của tập thể: “chúng tôi”, “tuổi trẻ”, “đất nước”. Thơ Nhiên là lời của cá nhân: “tôi”, “duyên”, “Chúa”, “đau khổ”.
Cầm viết để tin, Nhiên viết để sống sót. Cầm nhìn tình yêu như ánh sáng đầu ngày, Nhiên nhìn tình yêu như bóng tối của chính mình. Cầm giữ lại tuổi trẻ cho cả một thế hệ, Nhiên giữ lại nỗi buồn cho những kẻ không còn nơi trú.
Trong Thư mùa thu, Hoàng Nhuận Cầm thủ thỉ: Dấu chân chúng mình chắc đã gặp nhau/ Mùa Thu trong thành phố với rừng sâu… Một mùa thu trong chiến tranh, trên chiến trường nhưng có những khoảnh khắc dịu dàng, có thể nắm bằng tay.
Còn trong Hai hàng me trên đường Gia Long, Nguyễn Tất Nhiên lặng lẽ: Chiều nắng âm thầm chào biệt lũ lá me/ Lá me nhỏ, như nụ cười hai đứa nhỏ/ Tình cũng khó theo thời cơm áo, khó/ Ta dìu nhau đi dưới bóng nợ nần …
Một mùa thu khác - lạnh hơn, thật hơn, nơi mỗi chiếc lá là một lời tạ lỗi.
Hoàng Nhuận Cầm yêu trong tiếng pháo giao thừa, Nguyễn Tất Nhiên yêu trong tiếng chuông nhà thờ.
Cầm tin vào Tổ quốc, Nhiên tin vào Chúa. Nhưng cả hai đều tin vào cái đẹp, vào thơ như một ngọn đèn nhỏ cứu rỗi con người.
Một người thắp đèn cho thế hệ mình, một người thắp nến cho linh hồn mình.
Trong Chiếc lá đầu tiên, Cầm viết:
Chùm phượng hồng yêu dấu ấy rời tay
Tiếng ve trong veo xé đôi hồ nước
Con ve tiên tri vô tâm báo trước
Có lẽ một người cũng bắt đầu yêu.
Còn Nhiên, trong Bởi yêu em nên sầu khổ dịu dàng, thì thầm:
Nắng bờ sông như màu trang vở cũ
Thuở học trò em làm khổ ai chưa?
Anh muốn khóc trong buổi đầu niên học
Bàn tay xương cầm hờ hẫng văn bằng
Hai bài thơ - hai tâm thế. Một bên là ánh sáng của buổi hẹn đầu, một bên là mưa vùi của cuộc chia ly.
Đọc thơ Cầm, lại đọc thơ Nhiên, có những lúc tôi tưởng tượng họ gặp nhau - trong một quán nhỏ ở giữa Hà Nội mưa phùn. Cầm nói: “Thơ là tuổi trẻ được giữ lại bằng chữ.” Nhiên mỉm cười: “Thơ là nỗi buồn không chết đi được.” Rồi họ im lặng, nghe tiếng mưa rơi ngoài hiên, nghe tiếng ve kêu trong trí nhớ. Cả hai đều biết, một người đi bằng con đường sáng, một người đi bằng con đường tối, nhưng đều đến cùng một nơi - nơi cái đẹp trở thành cách con người chống lại lãng quên.
Cầm được mai táng trong kí ức tập thể, Nhiên được chôn trong kí ức riêng.
Một người là tiếng cười trong sân trường Hà Nội, một người là tiếng thở dài trong đêm Sài Gòn. Nhưng cả hai, kì lạ thay, đều khiến người ta nhớ về tuổi trẻ - cái tuổi luôn vừa ngây thơ vừa khắc khoải, vừa muốn tin vừa sợ mất.
Và con đường họ khai phá trong thi ca, nhiều người sau - trong đó có tôi - vẫn đi, bởi vẻ đẹp bao dung của nó: vẻ đẹp không khép lại trong một thời, mà mở ra như một vệt sáng dài, nơi mỗi thế hệ đều có thể tìm thấy phần trong trẻo của mình.
Chợt nhớ hôm Viện Văn học tổ chức tọa đàm về thơ tôi, căn phòng nhỏ trên phố Nguyễn Du sáng lên bởi những gương mặt thân quen - bạn bè, đồng nghiệp, những người từng đọc tôi từ Chiều không tên như vết mực giữa đời, qua Loạn bút hành đến Viễn ca. Ở giữa buổi nói chuyện, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên phát biểu: “Thơ Thanh cần thoát lối Mễ Trì.”
Cả hội trường khẽ xôn xao. Và sau đó dư luận còn xôn xao hơn nữa. Một tờ báo còn giật tít đại loại như Phạm Xuân Nguyên xui Nguyễn Tiến Thanh hãy đốt thơ mình, bởi như Cầm đã viết Mùa xuân ấy nói thật là anh đã/ xếp ba lô lặng lẽ đốt thơ mình, vì Câu thơ ấy có gì không thật nữa/ Chớp qua đời như pháo sáng mà thôi.
Tôi mỉm cười, vừa đồng ý, vừa không đồng ý với anh Nguyên. Đồng ý - vì đúng là trong tôi vẫn còn nguyên cái “lối Mễ Trì”: cái hành lang ẩm mưa, tiếng guitar lẫn hơi người, ánh nến soi gương mặt bạn thơ. Nhưng tôi không đồng ý ở chữ “thoát”. Tôi chưa bao giờ muốn thoát khỏi nơi đó. Lối ấy, với tôi, không phải là cái bẫy của hoài niệm, mà là một miền thánh đường - nơi mỗi hạt phấn rơi đều có linh hồn, nơi mỗi câu thơ là một nhịp thở của tuổi hai mươi.
Nếu có thể đi mãi trên con đường ấy, tôi vẫn muốn đi - đi với rung động, với lòng tin, với sự hiến dâng như cách Cầm và Nhiên đã từng. Bởi mọi con đường của thi ca, dù khởi đầu ở Mễ Trì, Biên Hòa hay bất cứ đâu, nếu người đi đủ say, đủ yêu, thì cuối cùng cũng sẽ dẫn đến La Mã - nơi cái đẹp trở thành đức tin.
Tôi chỉ sợ không phải lối Mễ Trì ràng buộc người viết, mà chính người viết không còn đủ trái tim để bước tiếp trên lối ấy. Cầm đã bước bằng ánh sáng, Nhiên đã bước bằng vết thương. Còn tôi - tôi chỉ mong được tiếp tục bước, giữa hai bóng họ, trong lối đi trắng phấn năm nào.
Phấn trắng Mễ Trì vẫn rơi trong trí nhớ, thập giá Biên Hòa vẫn run trong những câu thơ.
Giữa ánh sáng và vết thương, các nhà thơ, những kẻ còn tin vào ngôn từ - vẫn đi tiếp, dưới mưa tuổi hai mươi không bao giờ tắt.