Trong thời đại chuyển đổi kỹ thuật số, lĩnh vực phê bình văn học nghệ thuật đã trải qua sự tiến bộ đáng kể tại Việt Nam. Đời sống văn học nghệ thuật của nước ta những năm gần đây đã có những thay đổi và phát triển theo chiều hướng phân cực, vừa ồn ào vừa lặng lẽ. Ồn ào trên mạng xã hội do những Facebooker (người dùng Facebook) hay YouTuber (người sáng tạo trên nền tảng YouTube) và lặng lẽ trên những “diễn đàn” của các cơ quan quản lí văn hóa văn nghệ, thể hiện trên báo và tạp chí in. Mạng xã hội, với tầm ảnh hưởng và tính thân thiện, đã trở thành “chiến trường” cho cuộc thảo luận về văn học nghệ thuật. Nguyên nhân chính là do sự vận động của tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội trong xu thế toàn cầu hóa và sự tác động của cuộc Cách mạng công nghệ 4.0. Bài viết này sẽ đi sâu vào động thái của phê bình văn học nghệ thuật trên các nền tảng mạng xã hội tại Việt Nam và tầm ảnh hưởng rộng lớn của nó.
Nguồn ảnh Internet. |
Trước hết khái niệm “phê bình mạng” được hiểu là phê bình các vấn đề về văn học nghệ thuật diễn ra “trên mạng” internet; rồi cũng có thể hiểu đó là kiểu phê bình “liều mạng”, nghĩ gì nói nấy, không cần nền tảng lí luận; và còn cách hiểu khác là phê bình “văng mạng”, “đu” theo xu hướng (trending), bất chấp việc người viết có thưởng thức tác phẩm hay không. Do vậy, phê bình “mạng” là một cách nói ẩn dụ nhiều nghĩa, để chỉ một lĩnh vực đời sống tinh thần vừa năng động cũng vừa phức tạp. Nói phê bình mạng là nói đến tính chất của việc phê bình chứ không chỉ là phương tiện chuyển tải.
Thời gian qua, do sự phát triển rộng rãi và nhanh chóng của internet và mạng xã hội nên mỗi người đều có khả năng sử dụng một tài khoản xã hội của mình để bày tỏ ý kiến, quan điểm cá nhân về nhiều vấn đề trong cuộc sống. Có thể nói, chỉ cần đăng nhập vào tài khoản Facebook cá nhân, người ta có thể bình luận, chia sẻ, có ý kiến về hầu hết mọi lĩnh vực trong cuộc sống. Từ những quan điểm cá nhân về những vấn đề trong cuộc sống đời thường, một số người đã bước sang có ý kiến về các lĩnh vực của văn học nghệ thuật. Thời gian gần đây nổi bật lên trong các hiện tượng trao đổi trên mạng xã hội về văn học nghệ thuật là phê bình văn học và phê bình phim.
Các mạng xã hội luôn tìm cách phát triển theo hướng để cho người dùng ngày càng tương tác nhiều hơn, duy trì sự theo dõi và “lướt” nhanh hơn. Chẳng hạn, từ tháng 7/2020, Facebook bắt đầu phát triển mục “Chủ đề hot” với mục tiêu “Khám phá các chủ đề nổi bật và phổ biến nhất trên Facebook và Instagram mỗi tháng. Từ việc khám phá và thu thập thông tin chủ đề theo quốc gia, theo nền tảng và theo thời gian (mỗi tháng), các nhà thiết kế đã sử dụng các thông tin chi tiết này để tạo thông điệp phù hợp, cập nhật chiến lược theo mùa và bắt kịp văn hóa, cũng như đối tượng”. Theo cách làm này, hằng tháng, chủ đề nóng lựa chọn các đề tài thảo luận trên Facebook và Instagram có nội dung tăng ít nhất gấp đôi so với tháng trước. Nội dung thường liên quan đến tin tức, sự kiện xã hội và văn hóa. Các chủ đề trò chuyện này làm tăng đột biến số lượng lớn nội dung đăng trong một tháng cụ thể. Chính nhờ cách luôn hướng về sự tương tác của khách hàng nên các công cụ mạng xã hội đã giúp người đọc kết nối với nhau “theo chiều rộng” và làm biến mất dần văn hóa đọc.
Trên mạng xã hội, trung bình khoảng 10 ngày, sẽ có một xu hướng, lôi kéo rất nhiều người bình luận và chia sẻ. Phê bình văn học nghệ thuật trên mạng cũng vì thế mà ăn theo, trở thành những “vụ việc” đình đám, những “hot trends” (xu hướng nổi cộm). Bản chất của phê bình theo “xu hướng” là hình thành rất nhanh, qua rất mau, quên rất dễ. Xu hướng sau thay thế cho xu hướng trước. Có thể kể đến những đợt phê bình xu hướng gần đây liên quan đến văn học nghệ thuật như vụ câu hỏi văn học trong chương trình chung kết “Đường lên đỉnh Olympia 2023” của Đài Truyền hình Việt Nam (VTV), vụ “bắt nạt”, “con chào mào” (tên bài thơ) trong chương trình Ngữ văn mới, vụ phim Đất rừng phương Nam... Phê bình mạng cứ thế gặm nhấm những buồn vui của người đọc Việt Nam, làm phai dần những trạng thái trí tuệ khi thưởng thức tác phẩm phê bình văn học nghệ thuật.
Có một quan điểm phổ biến là ở Việt Nam, người tham gia mạng xã hội thường ít tham gia vào tranh luận xây dựng, thay vào đó, thường dành nhiều thời gian để công kích cá nhân. Trên mạng xã hội, người ta thường dễ bị áp lực từ đám đông hoặc tận dụng tâm lý đám đông để trốn tránh trách nhiệm cá nhân. Hiện tượng tự nhiên chủ nghĩa khá phổ biến, trong đó người ta coi như không cần tôn trọng đối thủ trong tranh biện, và tha hồ sử dụng lời lẽ thô tục, công kích, thậm chí “chụp mũ” người đối thoại(1). Điều này không chỉ làm tổn thương uy tín của bản thân mà còn làm mất đi tinh thần cao cả, trong sáng và hướng thượng trong tranh luận. Thay vì xây dựng lập luận logic và làm sáng tỏ vấn đề, họ thường chỉ quan tâm đến việc thể hiện cảm xúc và đánh bại đối thủ. Sự thiếu trung thực và tinh thần tranh luận xây dựng đã biến mất trong quá trình này.
Lối phê bình mạng có đặc điểm chung là dựa trên nền tảng tư duy phân kì (divergent thinking), không quy về nền tảng lí luận nào mà đa trị về lí thuyết, đậm tính cá nhân, nhiều chất ngẫu hứng. Bắt được một câu thơ không hay, họ túm lấy đề suy diễn cho cả bài. Chỉ có một chi tiết chưa nghe rõ, thiếu bình tĩnh, thiếu kiểm chứng làm cho họ quy chụp cả chương trình. Trên không gian mạng, càng chửi thì lại càng thu hút sự chú ý, càng chú ý thì càng thích nói. Lâu dần với số người theo dõi lớn, họ trở thành các KOLs (Key opinion leaders - những người có ảnh hưởng đối với cộng đồng ở trên mạng). Mỗi khi họ viết status, lập tức các thuật toán của mạng xã hội sẽ giúp cho họ tiếp cận đến người khác rất nhanh. Và phê bình văn học trên mạng xã hội phần nhiều và ồn ào là phê phán người khác. Có một số trang phê bình nhẹ nhàng, lập luận thuyết phục thì ít ai xem.
Một trong những lời chỉ trích đáng kể nhất đối với mạng xã hội là việc tạo ra một môi trường không ngừng tìm kiếm sự xác nhận. Các trang truyền thông xã hội như Instagram, Facebook và Twitter thúc đẩy mạnh mẽ mong muốn được chấp thuận, nơi người dùng tìm kiếm lượt thích, lượt chia sẻ và bình luận. Điều này có thể khiến các cá nhân đặt giá trị bản thân dựa trên ý kiến của người khác thay vì giá trị vốn có của họ. Hơn nữa, nó có thể dẫn đến sự thiếu tính xác thực và thúc đẩy một nền văn hóa hời hợt, nơi các cá nhân ưu tiên thể hiện một hình ảnh hoặc tính cách cụ thể (tức là “vống” vấn đề lên theo kiểu đao to búa lớn) hơn là sống thật với chính mình. Điều này có thể tác động tiêu cực đến sức khỏe tâm thần của một người, dẫn đến lo lắng hoặc trầm cảm nếu họ cảm thấy sự hiện diện trực tuyến của mình không nhận được đủ sự xác nhận của người khác (qua số “likes” và bình luận). Sự tác động của mạng xã hội cũng ảnh hưởng lớn đến định hướng xây dựng nền công nghiệp văn hoá nước nhà. Thói quen và các hiện tượng văn hóa không kịp chấn chỉnh và thay đổi sẽ kéo theo sự phát triển công nghiệp văn hóa chậm lại. Phê bình mạng đã làm doanh thu của bộ phim Đất rừng phương Nam giảm rõ rệt, nhưng sâu xa hơn, nó làm suy giảm niềm tin của người làm nghề, nó đánh tráo những giá trị ảo trên những diễn đàn, nó bỏ qua những tiếng nói trung thực, nó góp phần làm xói mòn niềm tin của người xem về cái chân, cái thiện. Giới trẻ đang lao đi theo những trào lưu trên mạng trong đó có cả phê bình mạng. Các em học sinh không được ai định hướng, mà nếu có định hướng đúng thì lại không nhiều người nghe. Chưa bước chân vào trường đã thấy người ta nói xấu bài thơ mình sắp học trong sách giáo khoa một cách thậm tệ thì thử hỏi ý chí nghị lực nào để tạo cho các em động lực thưởng thức tác phẩm văn học?
Không thể từ chối là mạng xã hội đã tạo nên những phong trào nhân văn có tác động lớn đến con người trong cuộc đấu tranh chống cái xấu. Một ví dụ điển hình cho điều này là phong trào MeToo, bắt nguồn từ “hashtag” trên mạng xã hội và cho phép mọi người từ khắp nơi trên thế giới chia sẻ câu chuyện của họ về quấy rối và tấn công tình dục, từ đó bắt đầu một cuộc trò chuyện toàn cầu và khuyến khích tìm hiểu thêm về những vấn đề này. Tuy nhiên, khả năng duy trì những định kiến và thành kiến bất lợi làm cho phê bình mạng trở thành một hiện tượng cần phải được xem xét một cách nghiêm túc. Phương tiện truyền thông xã hội có thể phóng đại những thông điệp mang tính phân biệt đối xử hoặc chứa đầy sự căm thù và các thuật toán được sử dụng bởi các nền tảng truyền thông xã hội có khả năng củng cố những thành kiến hiện có và tạo ra “buồng phản âm” nơi các cá nhân chỉ được tiếp xúc với những ý kiến và quan điểm tương ứng với quan điểm của họ. Điều này có thể dẫn đến sự thiếu đa dạng trong tư tưởng và biểu hiện của những hệ tư tưởng độc hại. Hơn nữa, mạng xã hội có thể được sử dụng làm vũ khí để bắt nạt và quấy rối trên mạng, điều này có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe tâm thần. Xét về văn học nghệ thuật, những thuật toán mạng xã hội sẽ dẫn người đọc, nhất là giới trẻ không tiếp cận với những chân giá trị của nhân loại.
Không thể phủ nhận sự tồn tại và sự phát triển ngày càng lớn mạnh của văn học mạng, phê bình mạng trong đời sống hiện nay, nhất là dưới sự tác động của cuộc Cách mạng công nghệ 4.0. Không giống phê bình truyền thống, phê bình mạng phần lớn là ăn xổi ở thì, chạy theo xu hướng, chịu sự tác động của cộng đồng hơn là khả năng tự chủ của bản thân người viết trước một vấn đề văn học. Phê bình mạng thiếu kiểm soát không chỉ làm tổn hại đến đời sống bình thường của việc thưởng thức tác phẩm mà nó tạo ra những hiện tượng lệch giá trị của nền văn hóa Việt Nam. Giáo dục thẩm mĩ trong trường học cũng không loại trừ nhiệm vụ giáo dục giá trị công dân trong thời đại số. Giáo viên Ngữ văn không thể chỉ cầm sách mà còn cần phải biết làm một facebooker để định hướng học sinh. Và đến lúc tất cả những người làm phê bình văn học nghệ thuật cần phải đổi mới tiếp cận bạn đọc, mạnh dạn viết gọn lại, xé nhỏ vấn đề, hòa theo nhịp xu hướng để mong vớt lại những giá trị đích thực của văn học nghệ thuật trên dòng thác mạng xã hội. Muốn thế, nhà phê bình không chỉ dựa vào chuyên môn mà phải có bản lĩnh và tâm lí vững vàng khi bước vào phê bình mạng.