Cơn mưa sáng vừa dứt, để lại những hạt nước còn đọng long lanh trên tàu lá chuối xanh non, lấp lánh như những viên ngọc tự nhiên. Mùi đất ẩm ngai ngái, quyện cùng mùi nhang chùa thoảng trong gió.
Tôi về ấp Sơn Ton, xã Cù Lao Dung, thành phố Cần Thơ vào một ngày tháng tám, khi miền Tây vào giữa mùa mưa, mang theo những cơn giông bất chợt. Cơn mưa sáng vừa dứt, để lại những hạt nước còn đọng long lanh trên tàu lá chuối xanh non, lấp lánh như những viên ngọc tự nhiên. Mùi đất ẩm ngai ngái, quyện cùng mùi nhang chùa thoảng trong gió. Trong khoảnh khắc ấy, tôi cảm nhận rõ ràng sự thanh bình, dung dị của một vùng quê mà dường như thời gian trôi chậm hơn, đủ để con người sống trọn vẹn với những giá trị cốt lõi của tình người. Không khí trong lành, sự yên ả của cảnh vật như xoa dịu mọi lo toan, mở lối cho những câu chuyện đời, chuyện người được lắng nghe và thấu hiểu.
![]() |
| Minh họa Thanh Phương |
Không cần phải hỏi lâu, chỉ cần dăm ba câu chuyện phiếm bên chén trà nóng, bà con ở ấp Sơn Ton đều biết và dành cho ông nhiều tình cảm tốt đẹp. Họ kể vanh vách những việc ông làm như thể đó là những câu chuyện cổ tích về người hiền đã thấm sâu vào tiềm thức của họ. Mỗi câu chuyện đều đong đầy tình cảm, sự ngưỡng mộ và lòng biết ơn sâu sắc. Đối với tôi, việc được lắng nghe những câu chuyện ấy trực tiếp từ người dân như một “đặc ân”, bởi nó cho thấy sự gần gũi, chân thành mà ông Đen đã xây dựng với cộng đồng của mình.
Ngôi nhà lợp tôn, tuy đã cũ kĩ với những dấu vết của thời gian, nhưng vẫn toát lên vẻ ấm cúng, nép mình bên vạt cau cao vút. Sự giản dị của ngôi nhà cũng chính là sự giản dị, chân chất trong con người ông. Ông Nhan Văn Đen năm nay đã gần bảy mươi tuổi và có hơn mười năm liên tục đảm nhận vai trò là “Người có uy tín (NCUT) trong đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS)” ở địa phương. Dáng người ông hơi gầy nhưng vẫn toát lên vẻ khoẻ mạnh, nhanh nhẹn. Bước chân ông thoăn thoắt, vững chãi và nụ cười hiền hậu, chất phác lúc nào cũng nở sẵn trên môi như bông sen thanh khiết vươn mình từ bùn lầy. Nụ cười ấy không chỉ là biểu hiện của sự an yên trong tâm hồn, mà còn là lời chào thân thiện, mở ra những câu chuyện về cuộc đời ông, về những việc ông đã làm cho cộng đồng.
Với vai trò trách nhiệm của mình, ông nhận thấy, phải làm sao nói cho dân hiểu, dân tin và làm theo. Ông Đen chiêm nghiệm, đầu tiên phải sống gương mẫu, phải luôn gần gũi với người dân trong ấp, nhưng muốn cho dân hiểu thì trước hết mình phải hiểu, muốn cho bà con làm theo trước hết mình phải làm. Đây chính là triết lí sống và làm việc của ông, một triết lí giản dị nhưng vô cùng hiệu quả, biến ông thành một “kênh” tuyên truyền sống động cho chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước.
Vì vậy mọi người thấy ông tham dự đều đặn các cuộc họp, sinh hoạt trong ấp, xã để kịp thời cập nhật các thông tin nhằm “có vốn” để tuyên truyền, vận động bà con tham gia thực hiện tốt các phong trào của chính quyền địa phương phát động. Bên cạnh đó, hằng ngày ông tranh thủ sau những giờ ra vườn, ra rẫy, đến từng hộ gia đình còn khó khăn thăm hỏi, chuyện trò, vừa động viên lao động sản xuất, vừa khéo léo vận động họ biết chú trọng việc giáo dục con cháu, không vi phạm pháp luật, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, xây dựng tình đoàn kết trong cộng đồng, xây dựng khu dân cư văn hoá, xây dựng nông thôn mới, tránh mê tín dị đoan, bỏ các hủ tục lạc hậu, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, không nghe theo những phần tử xấu xúi giục, kích động nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Những hoạt động này của ông, có vị trí, vai trò quan trọng, góp phần đắc lực giúp các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng, Nhà nước tổ chức thực hiện thắng lợi chức năng, nhiệm vụ được giao.
Chuyện ông hòa giải những mâu thuẫn trong ấp, biến những ngọn lửa giận hờn thành làn khói ấm của tình làng nghĩa xóm. Chẳng hạn như tham gia hòa giải những tranh chấp về đất đai, những vụ việc hôn nhân gia đình và những vụ việc phức tạp về trật tự xã hội. Trong một cộng đồng nhỏ, nơi những xích mích cá nhân có thể dễ dàng bùng phát, vai trò của người hòa giải là vô cùng quan trọng. Ông Đen không chỉ lắng nghe, mà còn dùng sự thấu hiểu và lòng chân thành để xoa dịu những cái tôi, hàn gắn những rạn nứt, mang lại sự bình yên cho từng mái nhà, từng con người. Ông không chỉ giải quyết các vấn đề bề nổi mà còn đi sâu vào gốc rễ của mâu thuẫn, giúp bà con hiểu nhau hơn, sống bao dung hơn.
Chuyện ông vận động bà con hiến đất mở đường, từng tấc đất vườn, từng bờ ao, từng luống rau được sẻ chia để những con đường mới được mở ra, nối liền những mái nhà, những cánh đồng. Đây không chỉ là việc hiến đất đơn thuần, mà là sự hy sinh, sự đồng lòng vì một tương lai chung. Ông Đen hiểu rằng, những con đường là mạch máu của sự phát triển, là cầu nối để đưa sản vật địa phương ra thị trường, để trẻ em đến trường dễ dàng hơn. Ấp Sơn Ton luôn là điểm sáng về xây dựng khối đại đoàn kết, nhiều hộ tham gia hiến đất xây dựng các công trình dân sinh dài gần ba ngàn mét, góp phần phục vụ cho việc đi lại của người dân. Chính gia đình ông là hộ tiên phong, tự nguyện cắt hơn năm trăm mét vuông đất vườn, một diện tích không nhỏ đối với một gia đình nông dân ở đây. “Hiến đất để con cháu mình có con đường rộng thênh thang đến trường, đến tương lai, để bà con mình có đường đưa hàng ra chợ, thuận tiện buôn bán, phát triển kinh tế. Làm chuyện đó, tôi thấy vui, thấy mình sống không vô ích, sống có ý nghĩa.” Câu nói ấy, giản dị nhưng như gói cả triết lí sống: cho đi là còn mãi. Khi hỏi về bí quyết, ông khiêm tốn: “Tôi có bí quyết gì đâu. Tôi sống phải, nói đúng nên mọi người mới nghe.” Ông Đen cũng cho rằng tình cảm, quyền lợi của bà con mới quan trọng. “Nhà nước vận động hiến đất làm đường là để phục vụ cho bà con. Chúng tôi có đường đi, chúng tôi là người hưởng lợi, chúng tôi đâu có mất gì. Là người dân, khi Nhà nước vận động, mình phải chấp hành, thực hiện. Với lại, Nhà nước cho đồng bào nhiều thứ lắm, chẳng lẽ có bao nhiêu đất mà chúng tôi không cho được.” Lời của ông Đen rất chân thật mà thấm tình, thấm nghĩa.
Một trong những dấu ấn rõ nét nhất về sự cống hiến của ông Đen cho cộng đồng chính là vai trò của ông trong việc xóa bỏ những chiếc cầu khỉ nguy hiểm và vận động xây dựng những cây cầu bê tông kiên cố. Từ bao đời nay, những chiếc cầu khỉ ọp ẹp, chênh vênh đã trở thành hình ảnh quen thuộc ở vùng sông nước miền Tây. Dù mang đậm nét đặc trưng của vùng, nhưng chúng tiềm ẩn vô vàn rủi ro, đặc biệt là đối với trẻ em và người già. Tôi đã từng chứng kiến những em nhỏ vất vả, chật vật mỗi khi qua cầu, những người phụ nữ gánh hàng nặng trĩu phải đi từng bước thận trọng, lòng đầy bất an mỗi khi con nước lớn. Hơn cả sự bất tiện, đó là mối hiểm nguy rình rập, đôi khi cướp đi những sinh mạng quý giá. Ông Đen, với tầm nhìn của một người lãnh đạo cộng đồng và sự thấu hiểu sâu sắc về cuộc sống của bà con, đã nhìn thấy sự cần thiết phải thay đổi. Ông không chỉ nói suông mà bắt tay vào hành động. Ông đi từng nhà, gặp từng người, phân tích rõ ràng những lợi ích của việc có những cây cầu mới. Với sự kiên trì và uy tín của mình, ông đã thuyết phục được bà con đồng lòng, cùng chính quyền địa phương triển khai chương trình xóa cầu khỉ, xây cầu mới. Ông không chỉ vận động tiền của mà còn vận động ngày công, vật liệu, biến mỗi cây cầu thành một công trình của tình đoàn kết. Những cây cầu bê tông vững chắc dần mọc lên, không chỉ thay thế những chiếc cầu khỉ cũ kĩ mà còn trở thành biểu tượng của sự đổi mới, của cuộc sống tốt đẹp hơn, an toàn hơn. Giờ đây, mỗi khi nhìn thấy lũ trẻ tung tăng trên những cây cầu mới hay những chuyến xe máy chở hàng hóa bon bon qua lại, nụ cười của ông Đen lại nở rạng rỡ, một nụ cười của sự mãn nguyện, của niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn cho quê hương.
Một chuyện mà tôi khá ấn tượng về ông Đen, chính là ông mở lớp dạy chữ Khmer vào mỗi mùa hè, tiếng ê a của lũ trẻ vang vọng trong chùa, giữ gìn hồn cốt văn hóa dân tộc. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, việc gìn giữ ngôn ngữ và văn hóa truyền thống là một thách thức lớn đối với các dân tộc thiểu số. Ông Đen hiểu sâu sắc rằng, tiếng nói là linh hồn của dân tộc. Ông lo lắng: “Tôi thấy các con, các cháu hiện nay là người dân tộc Khmer mà không biết chữ Khmer là không được. Tôi biết chữ Khmer nên phải có trách nhiệm truyền dạy lại.” Với trách nhiệm và tâm huyết đó, ông đã tự nguyện đứng lớp, cùng Ban quản trị chùa Kos Tung mang con chữ Khmer cho các em nhỏ và người dân vào dịp hè, góp phần giữ gìn tiếng nói, chữ viết của đồng bào Khmer. Lớp học của ông không chỉ là nơi học chữ, mà còn là nơi gieo mầm tình yêu với văn hóa, với bản sắc dân tộc. Tiếng ê a của lũ trẻ trong chùa không chỉ là âm thanh của sự học hỏi, mà còn là âm thanh của hi vọng, của sự tiếp nối một di sản văn hóa quý báu.
Sư Trụ trì chùa Kos Tung cho biết thêm, hằng năm bản thân ông Đen đã cùng Ban quản lí chùa vận động bà con gần xa hàng trăm triệu đồng để làm kinh phí sửa chữa chùa và gần đây ông Đen với Ban Quản trị chùa Kos Tung vận động quyên góp xây dựng ngôi chánh điện với tổng kinh phí trên chín tỉ đồng. Con số chín tỉ đồng không chỉ là giá trị vật chất, mà còn là minh chứng cho sự đồng lòng, chung sức của cả cộng đồng dưới sự dẫn dắt của ông Đen, vì một ngôi chùa khang trang, một nơi sinh hoạt tâm linh và văn hóa cho bà con. Ông còn là một trong những người tích cực nhất trong việc vận động bà con tham gia chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát. Chính sách xóa nhà tạm, nhà dột nát cho người nghèo là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, đặc biệt là ở vùng nông thôn. Ông Đen tin rằng, một ngôi nhà kiên cố không chỉ mang lại sự an toàn mà còn là nền tảng cho một cuộc sống ổn định, giúp bà con an cư lạc nghiệp. Ông không chỉ vận động mà còn trực tiếp tham gia hỗ trợ, từ việc tìm kiếm nguồn lực đến việc giám sát xây dựng, đảm bảo những ngôi nhà mới thực sự chất lượng và phù hợp với nhu cầu của bà con. Cùng với chính quyền địa phương, ông khảo sát từng hộ gia đình, nắm bắt hoàn cảnh cụ thể, sau đó kêu gọi sự đóng góp từ các nhà hảo tâm, các tổ chức xã hội và cả sự chung tay của người dân trong ấp. Nhờ có ông và sự chung tay của cộng đồng, nhiều hộ nghèo đã có được ngôi nhà khang trang, thoát khỏi cảnh sống tạm bợ. Mỗi mái nhà mới được dựng lên cho thấy sự quan tâm, sẻ chia của cả cộng đồng và là niềm hạnh phúc lớn lao của những người như ông Đen. Sự thay đổi trong diện mạo của ấp Sơn Ton với những ngôi nhà vững chãi, khang trang hơn là minh chứng rõ nét cho những nỗ lực không ngừng nghỉ của ông.
“Mình sống, phải có trách nhiệm với bà con!” Ông nói giọng trầm mà dứt khoát như một lời thề nguyện với bản thân và với cộng đồng. Lời nói ấy không chỉ là khẩu hiệu, mà còn là kim chỉ nam cho mọi hành động của ông. Suốt hơn mười năm làm NCUT trong cộng đồng DTTS, ông Đen không đơn thuần là người truyền đạt những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Ông là “cây cầu” sống, bắc qua dòng sông của những lo toan, những băn khoăn, nối liền chính quyền và người dân. Đồng thời, thông qua ông, các cơ quan chức năng nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của người dân gửi tới Đảng, Nhà nước.
Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhận xét: “Các già làng, trưởng bản, NCUT là người tiêu biểu, gương mẫu, là điểm tựa cho mọi điểm tựa khác.” Lời nhận xét này như một sự khẳng định chính xác về vai trò và tầm ảnh hưởng của những người như ông Đen trong cộng đồng.
“Còn khỏe, còn đi nổi, tôi sẽ còn cống hiến và phục vụ cho xã hội.” Những lời ấy, vang lên từ trái tim của người già làng, lặng như bụi đất, nhẹ như cơn gió chiều, nhưng lại vang vọng mãi trong lòng tôi - một người viết, một người đang đi tìm những điều đẹp đẽ, những giá trị nhân văn giữa bộn bề cuộc sống thường nhật, những câu chuyện bình dị mà đầy sức lay động.
Tôi rời ấp Sơn Ton khi mặt trời đã khuất sau những rặng dừa xanh ngắt, ánh sáng cuối ngày lấp lánh trên những bờ khoai, rẫy bắp đang chờ ngày thu hoạch. Bước chân tôi nhẹ nhàng mà lòng thì đầy ắp những cảm xúc, nghĩ suy: Trong một thời đại đầy biến động, khi những giá trị vật chất đôi khi lấn át những giá trị tinh thần, những con người như ông Nhan Văn Đen, dù đã ở tuổi xế chiều, vẫn lặng lẽ dấn thân, vẫn khắc khoải một niềm tin yêu vào cộng đồng, vào đạo lí, vào nghĩa tình. Họ không ồn ào, không tìm kiếm vinh quang, không theo đuổi những tấm huy chương lấp lánh. Họ chỉ có ánh mắt ấm áp, nụ cười hiền hậu và những bước chân không biết mỏi, âm thầm gieo những hạt mầm thiện lương, vun đắp cho những giá trị bền vững của cuộc sống.
Trong hành trình tìm kiếm những giá trị nhân văn giữa bộn bề cuộc sống, tôi luôn tin rằng những câu chuyện đẹp nhất thường được viết nên bởi những con người bình dị, không ồn ào nhưng lại mang trong mình một sức lay động mãnh liệt như ông Nhan Văn Đen, một lão nông Khmer. Cuộc đời và những cống hiến của ông không chỉ là một tấm gương sáng cho cộng đồng, mà còn là nguồn cảm hứng vô tận, nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa của sự sẻ chia, tình làng nghĩa xóm và trách nhiệm đối với quê hương. Viết về ông, tôi không chỉ đơn thuần ghi lại những sự việc, mà còn muốn khắc họa một bức chân dung sống động về một trái tim nhân ái, một ngọn lửa không ngừng cháy trong lòng cộng đồng Khmer ở miệt Cù Lao Dung. Những câu chuyện về ông, dù chỉ là mảnh ghép nhỏ trong bức tranh lớn của xã hội, lại là minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của ý chí và lòng nhân ái, có khả năng kiến tạo nên những đổi thay vĩ đại.