Quán Kỳ Nam, bộ phim dài thứ hai của đạo diễn Leon Lê là một tác phẩm đẹp. Đó không phải là cái đẹp được tỉa tót để “hợp nhãn” người xem, thay vào đó, toát ra từ câu chuyện, cách cấu trúc khung hình, nhịp điệu cho đến âm nhạc và ngôn ngữ điện ảnh. Thập niên 1980, Khang (Liên Bỉnh Phát đóng) là nhà văn, dịch giả trẻ vừa rời Đà Lạt chuyển đến Sài Gòn, nhận công tác tại một nhà xuất bản. Thử thách của anh là dịch cuốn truyện nhỏ nhắn và đẹp đẽ Hoàng Tử Bé (Le Petit Prince) của nhà văn Pháp Antoine de Saint-Exupéry. Cùng lúc đó, anh gặp Kỳ Nam (Đỗ Thị Hải Yến đóng) - người phụ nữ đẹp, thông minh và thanh lịch tại cư xá nơi anh vừa dọn đến.
Quán Kỳ Nam gõ một nhịp điệu chậm rãi vào lòng người xem, theo phong cách làm phim “slow burn” (âm ỉ cháy). Điện ảnh của Leon Lê trong tác phẩm này mang một hơi thở rất nhẹ, nơi bóng nắng xiên qua từng ô cửa sổ, nơi những bản nhạc len lỏi giữa những đêm khuya vắng, nơi tiếng máy đánh chữ lạch tạch như níu giữ lại chút dịu dàng của những trang bản thảo còn theo dấu tháng năm. Thoảng trong câu chuyện “tình trong như đã mặt ngoài còn e” giữa Khang và Kỳ Nam là những nỗi bận tâm và vô thường của các nhân vật còn lại như ông Hảo, của cậu thiếu niên tên Su. Một bộ phim đầy trìu mến thông qua con mắt của Leon Lê, nơi người đạo diễn dường như vẫn bị mắc kẹt vào một khung thời gian nào đó khác mà không phải là hiện tại. Nếu Song Lang, phim dài đầu tay của Leon Lê là niềm đam mê với nghệ thuật cải lương, thì Quán Kỳ Nam chắt chiu tính văn chương của một thời đoạn trong quá khứ. Bộ phim như một sự lưu cữu đã được Leon Lê giải quyết rất gọn gàng, bằng một cảm giác đầy hiện hữu mà cũng thực mong manh.
Người ta vẫn nói cái đẹp thường buồn. Quán Kỳ Nam trọn vẹn điều này. Nó kể về một mối tình nhẹ nhàng, mỗi người trong quan hệ đó đều tự ý thức được hoàn cảnh của mình. Sự vị tha ánh lên trong từng lời thoại, như một thứ thuốc chữa lành. Nó đẹp từ khi câu chuyện Hoàng Tử Bé được nhắc đến lần đầu tiên, một cuộc khám phá về bản chất của sự tồn tại, yêu thương và rời đi. Nhưng nó cũng mang đến một cái dư vị buồn và ngẩm đắng. Cái buồn rất nhẹ nhưng sâu lắng, cho những niềm mong mỏi không thành, cho những ước mơ trượt qua kẽ tay, cho những tình yêu chưa vẹn, cho mỗi khoảng lặng của cuộc đời trước các lựa chọn. Cái buồn luôn hiện hữu nhưng niềm vui không mất đi, vì thế mỗi nhân vật trong Quán Kỳ Nam luôn chắt chiu những khoảnh khắc kỳ ngộ. Mỗi cuộc gặp gỡ cuối cùng đều tạo ra một phản ứng không quá cuồng nhiệt, không nhiều hy vọng nhưng luôn gợi lên sự trân quý những thì giờ cạnh nhau.
Quán Kỳ Nam đẹp và buồn. Cái đẹp và buồn đó ám luôn ra ngoài bộ phim. Đây là một trong những tác phẩm điện ảnh hiếm hoi của Việt Nam được chính những khán giả ra rạp khen ngợi là đẹp và hay. Nhưng buồn ở chỗ, phim thất bại phòng vé. Nó là tác phẩm mà những ai rời khỏi rạp sẽ mang theo đôi chút niềm tiếc nuối mơ hồ vì nó xứng đáng được “sống” thay vì “chết” phòng vé. Sau khoảng ba tuần ra rạp, phim chỉ đạt doanh thu loanh quanh 3 tỷ đồng. Con số khiêm tốn này không chỉ đến từ việc khán giả đại chúng không mặn mà với những bộ phim nghệ thuật giữa một “rừng” phim bom tấn, với tiết tấu nhanh và bùng nổ hay những tác phẩm phim kinh dị rùng rợn. Sự không mặn mà còn đến từ các hệ thống chiếu phim, cụm rạp, khi những suất chiếu gần như mang đến cảm giác của sự tượng trưng. Lèo tèo một hai suất chiếu, không quá sớm thì quá muộn - cái giờ mà người ta bận đi học, đi làm hoặc cần nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhoài mưu sinh.
![]() |
| Đỗ Thị Hải Yến (vai Kỳ Nam) và Liên Bỉnh Phát (vai Khang) trong bộ phim điện ảnh Quán Kỳ Nam của đạo diễn Leon Lê ra mắt năm 2025. Ảnh: QKN |
Phim nghệ thuật lỗ nặng được chấp nhận như một lời nguyền khó giải từ điện ảnh Tây đến Ta. Quán Kỳ Nam với doanh thu loanh quanh 3 tỷ đồng được xem là thất bại phòng vé tiếp theo của dòng phim nghệ thuật Việt Nam trong năm 2025. Nhưng liệu dòng phim nghệ thuật, tác giả Việt Nam đã “thắng” tại rạp chiếu bao giờ? - Câu trả lời chính xác là chưa hẳn. Nhìn lại những tác phẩm điện ảnh theo dòng phim độc lập, nghệ thuật hay dòng phim tác giả của Việt Nam sẽ thấy một mẫu số chung. Dù thắng ở LHP Cannes hay gây tiếng vang tại LHP Venice, dù được khen ngợi ở LHP Berlin hay thắng giải lớn tại IDFA… những tác phẩm này vẫn “hẩm hiu” tại phòng vé trong nước. Bên trong vỏ kén vàng của Phạm Thiên Ân rời rạp với doanh thu 1,46 tỷ đồng; Mưa trên cánh bướm của Dương Diệu Linh “thê thảm” với con số 647,6 triệu đồng; Cu li không khóc bao giờ (nhưng rơi nước mắt tại phòng vé Việt Nam) của Phạm Ngọc Lân rời rạp với 745 triệu đồng; Song Lang, phim đầu tay của Leon Lê rời rạp với xấp xỉ 5 tỷ đồng; bộ phim tài liệu Những đứa trẻ trong sương của nữ đạo diễn Hà Lệ Diễm đạt 2,32 tỷ đồng doanh thu.
Phim nghệ thuật phương Tây cũng hẩm hiu phòng vé không khác phim nghệ thuật của Ta. Nhà phê bình Lê Hồng Lâm viết, “Chuyện phim độc lập/nghệ thuật thua lỗ tại phòng vé không còn là chuyện lạ, nhưng có lẽ hiếm có năm nào như năm nay. 25 phim thuộc dòng này, nhiều phim có đạo diễn tên tuổi, diễn viên ngôi sao hạng A, tranh giải LHP quốc tế, được giới phê bình khen ngợi, nhiều phim có kinh phí thuộc dạng cao đều lần lượt ‘ngã ngựa’ và ‘chết thảm’ tại phòng vé. 25 phim phát hành trong 3 tháng mùa thu, không có phim nào trong số đó thành ‘hit’ và chịu thua lỗ từ nhẹ đến nặng, có nhiều phim gần như mất trắng”. Đây là một thực tế đáng buồn về chuyện phòng vé nhưng chính Paul Thomas Anderson, đạo diễn của một trong những tác phẩm độc đáo nhất của năm 2025 One Battle After Another chia sẻ, “2025 là một năm tuyệt vời của điện ảnh. Hãy thử nhìn vào mà xem: Eddington, Weapons, Bugonia, 2 Richard Linklater films (Nouvelle Vague và Blue Moon), Sentimental Value, Marty Supreme”, những tác phẩm cứ lần lượt ra mắt. Bất cứ ai muốn khởi sự phàn nàn về phim ảnh bây giờ cần phải bình tĩnh lại”. Và có lẽ, nhìn lại những tác phẩm điện ảnh độc lập, nghệ thuật, chúng ta cũng không cần phải phàn nàn về chất lượng, dù có “đau lòng” chuyện phòng vé.
Câu chuyện phim nghệ thuật “chết” ở rạp khiến người viết liên tưởng đến ý niệm hy vọng trong một Thần thoại Hy Lạp. Giữa muôn vàn truyền thuyết nổi tiếng được truyền tai nhau xưa nay, Chiếc rương của nàng Pandora vẫn được nhắc đến như một ẩn dụ mang tính biểu tượng. Pandora, người phụ nữ đầu tiên được thần Zeus tặng một chiếc rương khi nàng bay xuống trái đất. Dù được dặn dò là cấm mở ra nhưng vì tò mò nàng đã trái lệnh. Thế là nàng đã giải phóng mọi “hạt giống” tai ương, đau khổ xuống trần gian. Duy chỉ còn hạt giống hy vọng là ở lại. Sự cám dỗ, hậu quả của hành động cũng như sức mạnh của niềm hy vọng trước nghịch cảnh đã trở thành biểu tượng mãi đến ngày nay. Thần thoại tuy dài, nhưng kể ra cũng ngắn. Và nếu nó là một ẩn dụ nào đó, thì phim nghệ thuật chính là hy vọng cho nền điện ảnh đang dần chết đi bởi những trào lưu, xu hướng, các định dạng và thói quen nghe nhìn mới. Nhưng sự tò mò (ở góc nhìn tích cực) chính là thứ mở ra những khả thể mới của nhà làm phim, để tạo ra những tác phẩm đột phá. Nhưng điều đáng buồn nhất là chẳng còn hạt giống hy vọng nào ở lại cả với phim Việt khi ra rạp.
Khi Quán Kỳ Nam lỗ nặng và đứng trước nguy cơ rời rạp sớm, nhiều người đã kêu gọi giải cứu. Nhưng sự giải cứu này dường như mang vị ngải cứu, ngâm ngẩm đắng vì không thực sự tạo ra được những tác động có thể nhìn thấy được. Tất nhiên, nó ảnh hưởng tích cực đến nhà làm phim, các nhà đầu tư, đơn vị phát hành cũng như khán giả với dòng phim này. Quán Kỳ Nam của đạo diễn Leon Lê cũng như các nhà làm phim nghệ thuật khác liệu có dám hy vọng trước tình hình phòng vé? - Nếu được trả lời, có lẽ họ sẽ nói có. Bởi không có hy vọng họ đã không “đắm đuối cá chuối” tạo ra những tác phẩm độc đáo, với những cái nhìn khác biệt và ngôn ngữ điện ảnh của riêng mình. Chính sự đa dạng này, giữa nghệ thuật và thương mại, chính là chìa khoá cho một nền điện ảnh phát triển bền vững.