Tuy nhiên, đình làng Hà Mỹ lại nức tiếng gần, xa bởi những bức chạm khắc gỗ tinh xảo, độc đáo, đẹp vào bậc nhất so với tất cả những ngôi đình cổ ở Việt Nam. Nhưng đây là ngôi đình còn có nhiều điều bí ẩn.
Khách thập phương và ngay cả dân làng cũng vẫn thường hay đặt ra những câu hỏi: Vì sao đình Hà Mỹ cho đến nay, gần như được bảo tồn nguyên bản kiến trúc cổ, nhưng không để lại lấy một tấm bia? Vì sao chẳng tìm thấy bất kỳ một chỗ nào trong đình ghi lại năm, tháng xây dựng hoặc ngày khánh thành? Vì sao ngoài bức đại tự treo trước thượng điện với bốn chữ “Thánh cung vạn tuế” không cho một thông tin gì đặc biệt ra... thì chẳng còn thấy một văn bản Hán Nôm nào khác liên quan đến ngôi đình còn lưu truyền lại? Có lẽ do chẳng thể trả lời được những câu hỏi ấy nên ngôi đình Hà Mỹ đã có nhiều huyền thoại khá ly kỳ và lạ lùng.
Một lần, khi cùng lúc tôi được hầu chuyện với nhiều vị cao niên trong làng thì một cụ bảo: Đình làng tôi không phải đình làng tôi đâu! Ngôi đình này là do làng tôi “thó” được ở ngoài Đông. Một người ở làng tôi, khi đi ra Đông Anh thì thấy ở đó có một ngôi đình khá đẹp. Mà khi ấy, hai làng họ đang tranh giành nhau. Thế là, giữa lúc hai bên còn đang mải cãi vã, không để ý, ông ấy đã lẳng lặng đến ăn trộm. Mang về.
Căn cứ vào kiến trúc của đình Hà Mỹ hiện nay, các nhà nghiên cứu đều khẳng định có niên đại vào khoảng cuối thế kỷ XVII, vào thời Lê Trung Hưng. Song nhiều cụ trong làng lại nói rằng làng Hà Mỹ có muộn hơn thời điểm đó nhiều. Theo các cụ nếu sớm thì làng các cụ cũng chỉ được hình thành từ cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ thứ XIX. Nghĩa là sau ước đoán niên đại của ngôi đình làng chừng hơn 100 năm. Khi ấy, có bốn hộ người họ Nguyễn ở làng Hà Thanh (Hà Tú) di cư ra đây lập trại rồi sau làm nên làng Hà Mỹ. Hàng chục năm về sau mới dôi ra được mươi hộ. Cũng vì nghèo, lại neo người nên không thể làm được đình. Thấy các làng bên cạnh người ta có đình thì thèm lắm. Ai nấy đều ước ao.
Bấy giờ, trong làng có một ông phù thủy rất cao tay. Ông này đã đi khắp mọi nơi, đặng tìm một ngôi đình để lấy về cho làng mình. Ông đã tìm được một ngôi rất ưng ý. May quá, hẳn là thần linh thổ địa ở đó đã chán ngán trước tình cảnh mất đoàn kết, luôn cãi cọ của dân bản địa, nên khi ông gieo quẻ, xin âm dương để đưa ngôi đình này đi thì được ngay. Thế là, chỉ trong một đêm, ông phù thuỷ người Hà Mỹ đã phù phép, sai khiến âm binh khênh tếch ngôi đình đó về. Dựng ngay ở giữa làng Hà Mỹ. Sáng ra, cả làng đều dụi mắt, bàng hoàng, kinh ngạc khi thấy ngôi đình uy nghi bỗng dưng mọc lên giữa làng mình. Mà cứ như là đình đã có ở đó từ lâu lắm rồi. Bởi ai cũng nhìn thấy cỏ mọc trùm chân tường, dây bìm bìm leo lên gần nóc đạo.
Chỉ ít ngày sau. Hai làng ngoài Đông Anh đến nhận đình. Họ bảo ngôi đình đang ở làng Hà Mỹ là của họ vừa mới bị ăn trộm. Hai làng này đi kiện lên quan. Quan hỏi mất đình từ bao giờ? Hai làng này bảo chỉ vừa mất cách đây mấy hôm. Người làng Hà Mỹ liền thưa: “Bẩm quan lớn! Đình làng tôi cỏ đã mọc trùm chân tường, bìm bìm leo lên tận nóc thì không thể là đình vừa ăn trộm mấy hôm được ạ! Xin quan trên đèn trời soi xét!”. Quan về thẩm tra, thấy quả đúng là như vậy nên đã xử cho Hà Mỹ được đình và phạt hai làng ở Đông Anh về tội vu vạ.
*
Câu chuyện về ngôi đình được đánh cắp... có thể chỉ nói lên một điều là kiến trúc đình Hà Mỹ rất khác lạ, không hề giống với kiến trúc của các đình làng trong vùng. Tôi là người đã học Mỹ thuật, hiểu biết về nghệ thuật điêu khắc, sững sờ khi được ngắm những bức trạm gỗ ở đây có rất nhiều nét khác biệt và rất độc đáo so với bất cứ một ngôi đình nào đó ở nước ta. Người nghệ sĩ dân gian thời xưa đã tạo nên những tác phẩm điêu khắc đầy ngẫu hứng và sinh động tại ngôi đình này. Bước qua bậu cửa, đã bắt gặp hai kẻ tràng gian giữa, tuy vẫn là phần thân rồng, đuôi rồng nhưng các họa tiết đã được khéo léo phổ vào đó các hình trang trí mang đậm tính dân gian là các cô gái? Hay cô tiên? Hoặc các vũ nữ? Tất cả đều mình trần, khỏa thân đang múa may, bay lượn. Có cô tiên còn được chạm nằm xấp, chổng mông, áp chặt vú và người ngọc vào vây rồng; chân tay thì quàng ra, ôm quặp lấy. Thật là một hình tượng đầy phồn thực giữa chốn đình chung linh thiêng cho ta thấy cái sự bay bổng, lãng mạn vô cùng tận của người nghệ sĩ dân gian.
![]() |
Hình ảnh minh họa. Nguồn pinterest |
Bước tới cửa cấm, hai bên tả hữu là hai bức cốn được đục chạm bằng một phong cách rất lạ, đẹp mà linh dị. Cùng với đề tài “long ổ”: rồng mẹ, rồng con, rồng cháu, rồng chắt, rồng chút, rồng chít... sinh sôi nảy nở phồn thịnh nhưng mỗi bên lại mang một phong cách thể hiện khác nhau. Một bên được đặc tả, nhấn mạnh sự sinh tồn theo mong ước “phúc, lộc, thọ” ngàn đời của cư dân lúa nước với những con rồng to nhỏ được xếp thành các khối hình nhấp nhô trông như những ngọn núi trùng điệp. Trên các đầu rồng lại chễm chệ một cô tiên nữ như khiêu vũ, nửa lại như trầm mặc, chiêm nghiệm sự sinh sôi, phát triển của tạo hóa.
Bức cốn bên kia lại mang nét uy nghiêm của vương quyền. Trên mảng chạm này có các đầu rồng trông hung dữ, uy nghiêm như muốn hăm dọa, tiêu trừ mọi sự bất chính. Các bờm, vây rồng ở bức chạm này dựng một loạt san sát như vô vàn lưỡi giáo, mác thẳng đứng lên như muốn đâm xuyên tới cõi vô cùng. Hình tượng rồng ở đây biến hóa, được nhào nặn giữa yếu tố dân gian với yếu tố cung đình. Sự kết hợp hài hòa giữa thần quyền với vương quyền như muốn để răn đe, giáo dục, hướng con người ta đến những điều chân, thiện, mỹ. Những hình tượng tiên nữ ở đây thật ấn tượng. Tôi nghĩ: không phải chỉ là ngẫu nhiên mà các tiên nữ lại xuất hiện nhiều ở đây với những tư thế lạ lùng như thế.
Trong khi chưa cụ nào giúp được tôi về câu hỏi ở trên thì một bất ngờ nữa đã đến. Những cụ già nhất ở Hà Mỹ cho tôi hay: trước đây, trên hai đầu xà lòng phía bên phải của ngôi đình còn có tượng hai cô tiên. Mỗi cô tiên cao chừng bảy, tám mươi phân.Trong hai cô tiên thì một cô ở mé tây (phía trong) có cánh xòe ra như ngỗng bay. Cô kia không cánh. Theo như lời các cụ mô tả lại khá tỉ mỉ, có cụ còn khéo tay vẽ cả ra giấy... thì tôi hiểu đây là hai pho tượng tròn cũng khá đặc sắc bằng gỗ mộc, không sơn, được tạc rất đẹp và tinh xảo với thân hình tiên nữ óng ả, nuột nà, mái tóc bồng diệu vợi. Cả hai cô tiên đều tai to, nét mặt và mắt mũi thanh tú. Theo lời cụ Ninh (94 tuổi) và cụ Thủy (81 tuổi) là những vị cao niên của làng thì hai cô tiên này đã bị quân Nhật lấy đi vào năm 1945 khi chúng đóng trong đình.
Quân Nhật lấy đi tượng hai cô tiên có lẽ cũng là đã đem theo toàn bộ mọi bí mật của ngôi đình. Theo như lời các cụ thì tất cả tài liệu liên quan đến ngôi đình, trong đó có nhiều văn bản Hán, Nôm đều được cất giấu trong lòng hai cô tiên ấy. Biết đâu hai tác phẩm điêu khắc đó vẫn còn lưu trữ ở một bảo tàng nào đó bên Nhật? Và nếu như tìm lại, chúng ta sẽ được hé lộ bao bí mật về ngôi đình kỳ lạ và bí hiểm này.
Theo giới thiệu của nhiều dân làng, tôi đã tìm đến cụ Nguyễn Văn Tông, 86 tuổi, sinh ra và sống tại Hà Mỹ cho đến nay. Cụ đỗ Xéc-ti-phi-ca thời Pháp thuộc. Hiện tấm bằng này còn được bảo quản mới nguyên. Cụ là người có tâm trong việc lưu giữ những hiện vật trong quá khứ, cụ kể cho tôi nghe về tục rước cỗ cuốn của làng cụ:
Từ năm 1946 trở về trước, năm nào làng tôi cũng tổ chức rước cỗ cuốn vào ngày rằm tháng Giêng. Trong mâm cỗ đặt trên kiệu rồng thì món cuốn rau là món quan trọng nhất, không thể thiếu. Món này được làm rất cầu kỳ: gà chỉ lóc bỏ xương đùi rồi đem băm cả con sao cho thật mịn, thật nhuyễn. Thịt mỡ lợn được áp chảo ra mỡ, gần thành tóp đem ngâm ngập trong mỡ nước từ trước đó vài tháng. Đến ngày làm cỗ vớt ra; cũng băm vụn, trộn lẫn với gà đã nhuyễn. Sau đó, nêm mắm muối, gia vị cho vừa ăn rồi xào chung với nhau. Lát sau đập thêm trứng gà vào xào tiếp. Đợi khi trứng chín thì bắc xuống, để nguội làm nhân gỏi cuốn. Đi kèm theo cuốn còn có một con gà trống to béo đã được luộc chín, một nồi gạo thổi thành xôi trắng và sáu cỗ bánh chưng. Những cỗ bánh chưng này cũng gói bằng gạo nếp, nhân đỗ thịt thông thường nhưng lại được gói theo hình ống, đường kính khoảng 25 phân, cao 60 phân. Để gói sáu chiếc bánh chưng này cũng phải mất một nồi gạo nếp mười hai đấu (chừng 16kg ). Sau đó, dân làng làm lễ cúng tế.
Món cuốn ăn lẫn với xôi trắng. Người Hà Mỹ xưa nay vẫn coi món này là lộc thánh, thuốc tiên. Tôi cũng chỉ nghe bảo dân làng ăn món này với ý nghĩa: năm mới sẽ được mát mẻ, tốt tươi và nhớ công ơn hai nàng tiên đã giúp thành hoàng làng là hai thánh Cao Sơn - Quý Minh đánh thắng quân Thục vào thời Hùng Vương thứ mười tám. Ấy là lời kể của cụ Tông. Tuy nhiên, “kho bảo tàng sống” của làng Hà Mỹ cũng không rõ các tiên nữ đã giúp đức thánh Cao Sơn - Quý Minh như thế nào.
Mãi về sau, tôi mới được biết đến một truyền thuyết không thuộc diện “chính sử”, mà là “dã sử” của làng. Chuyện kể rằng: lúc đánh đuổi, bao vây được quân Thục dưới chân núi Rừng Thờ thì hai anh em Cao Sơn - Quý Minh và quân của hai ông đột nhiên bị một cơn bệnh lạ, tất cả đều sốt cao, run lẩy bẩy... không sao cầm nổi vũ khí.
Giữa lúc quân Thục sắp thoát khỏi vòng vây, có cơ sắp phản công lại thì bỗng hai tiên nữ từ trên trời bay sà xuống, đem theo linh dược, chữa khỏi được bệnh cho quân Văn Lang. Vì thế mà trận ấy hai ông đã đánh tan quân Thục. Thứ linh dược mà hai nàng tiên đem đến chính là lá rau diếp. Truyền thuyết còn kể là từ ấy, hai nàng tiên luôn theo quân hai ông thánh. Đi đến đâu tiên cũng vung những hạt rau diếp có ngù (cây hạt trần) bay tứ tung, mọc vung vãi khắp nơi. Quân tướng ăn vào thì sức khỏe tăng lên gấp bội, đánh đâu thắng đấy. Lại có lúc, quân hai ông nhớ nhà, nhớ vợ thì hai nàng tiên lại biến những cây rau diếp thành những người đàn bà giống hệt vợ những người lính ở nhà....
Tôi đã được thưởng thức món “thần dược" của làng Hà Mỹ trong tết rau rằm tháng Giêng của làng. Quả thực, cỗ cuốn đúng là một đặc sản có một không hai. Ngon quá! Lúc trước thấy dân làng bảo món cuốn làm như thế, như thế thì nghĩ cũng bình thường. Ăn vào khách lạ miệng ai cũng phải bất ngờ thốt lên khen lấy khen để, Tôi liên tưởng về những lá rau diếp mơn mởn xanh non, nõn nà, mượt mà mềm mại... với những nàng tiên. Rồi tôi lại tiêng tiếc hai tác phẩm nghệ thuật đang còn lưu lạc xứ người... Chẳng hiểu sao, trên suốt dọc đường về lòng tôi cứ ngân nga câu hát: “Bao giờ rau diếp làm đình, gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta...” Biết bao điều bí ẩn, lãng mạn tưởng như là phi lý vẫn tồn tại trong nhân gian, nhưng sẽ không ai đi tìm đến tận cùng căn nguyên cội rễ. Hãy để cho đời sống phiêu bồng…