Ngày 15-3-1953, tại thôn Bản Bắc (Định Hóa, Thái Nguyên), Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 147/SL thành lập Doanh nghiệp quốc gia Chiếu bóng và Chụp ảnh Việt Nam. Một nền điện ảnh cách mạng chính thức khai sinh, non trẻ, ra đời trong khói lửa chiến tranh, mang sứ mệnh lịch sử.
Những thước phim đầu tiên không chỉ ghi hình mà còn làm vũ khí tinh thần. Trong kháng chiến chống Pháp và sau đó chống Mỹ, hàng trăm bộ phim truyện, phim tài liệu, phim thời sự đã theo chân quân dân ra chiến trường. Máy quay thay cho súng đạn, ống kính hướng vào đời sống nhân dân, khắc họa niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối cùng.
Khán giả hôm nay vẫn còn nhắc đến Chung một dòng sông, tác phẩm đặt nền móng cho điện ảnh cách mạng. Rồi Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, như vệt sáng rực rỡ tái hiện những năm tháng bi tráng ở giới tuyến. Những thước phim ấy không chỉ phản ánh hiện thực chiến tranh mà còn gieo vào lòng người niềm kiêu hãnh, khát vọng độc lập, lòng tự hào dân tộc.
|
Sau 1975, đất nước liền một dải. Điện ảnh chuyển mình, từ vũ khí tuyên truyền trở thành nhịp cầu nối con người với hành trình kiến thiết đất nước. Các bộ phim không ngừng soi chiếu hiện thực, tôn vinh những giá trị nhân văn và khát vọng đổi thay.
Khán giả thế hệ 8X, 9X chắc hẳn từng nghẹn ngào với Bao giờ cho đến tháng Mười của Đặng Nhật Minh, câu chuyện vừa riêng tư vừa mang tính nhân loại về mất mát và hy sinh. Cánh đồng hoang đưa người xem đến với miền Tây sông nước, nơi người nông dân biến mảnh đất thành pháo đài bất khuất. Hay Em bé Hà Nội khắc họa ánh mắt trẻ thơ xuyên qua khói lửa bom đạn, một biểu tượng không phai.
Bước vào thời kỳ Đổi mới, điện ảnh đa dạng hóa đề tài. Mùa len trâu đưa khán giả đi giữa cánh đồng mênh mông miền sông nước Nam Bộ, được bạn bè quốc tế nồng nhiệt đón nhận. Áo lụa Hà Đông lay động lòng người với câu chuyện tình trong bối cảnh chiến tranh. Và Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh đem lại hơi thở mới: nhẹ nhàng, trong trẻo, đầy chất thơ, làm sống dậy ký ức tuổi thơ của hàng triệu khán giả.
Những năm gần đây, điện ảnh Việt chứng kiến sự bùng nổ cả về thể loại lẫn phong cách. Từ hành động kịch tính như Hai Phượng, đến lãng mạn da diết trong Mắt biếc, rồi mạnh mẽ khai thác lịch sử qua Mưa đỏ, Địa đạo… Điện ảnh Việt vừa khẳng định bản sắc, vừa vươn ra thị trường quốc tế.
Năm 2024, doanh thu phim chiếu rạp vượt 5.200 tỷ đồng. Phía sau mỗi vé bán ra không chỉ là niềm vui thưởng thức, mà còn là việc làm cho hàng ngàn lao động, là sự thúc đẩy dịch vụ du lịch, quảng cáo, ẩm thực. Điện ảnh giờ đây không chỉ là nghệ thuật, mà đã trở thành động lực kinh tế.
|
Sự phát triển điện ảnh Việt hôm nay là sự song hành của hai khu vực: Nhà nước và tư nhân. Điện ảnh tư nhân nhanh nhạy, mạnh dạn thử nghiệm, liên tiếp tạo ra phim ăn khách, thu hút công chúng. Nhưng điện ảnh Nhà nước vẫn giữ vai trò “người gác đền”, chuyên chở những tác phẩm chính luận, lịch sử, nghệ thuật - những lĩnh vực tư nhân ít mặn mà vì lợi nhuận thấp, chi phí cao.
Sự bổ sung này tạo nên diện mạo phong phú: vừa có phim thương mại thu hút đông đảo khán giả, vừa có những tác phẩm tầm vóc nuôi dưỡng căn cốt văn hóa. Vấn đề đặt ra là xây dựng cơ chế hợp tác công - tư, để cả hai cùng phát triển, cạnh tranh lành mạnh, nâng cao chất lượng sáng tạo.
Để điện ảnh Việt Nam vươn lên thành một ngành công nghiệp văn hóa mũi nhọn, cần một chiến lược đồng bộ. Ba trụ cột chính được xác định:
Thứ nhất, là thể chế, chính sách. Luật Điện ảnh 2022 đã mở đường, nhưng vẫn cần hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch, tạo điều kiện cho sáng tạo, đầu tư, bảo hộ bản quyền. Pháp luật phải vừa chặt chẽ vừa linh hoạt, khuyến khích đổi mới và bảo vệ quyền lợi chính đáng.
Thứ hai, là hạ tầng, công nghệ. Thế giới đang bước vào kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo, công nghệ số. Điện ảnh Việt cần trường quay hiện đại, kho lưu trữ đạt chuẩn quốc tế, ứng dụng AI vào sản xuất, hậu kỳ, phát hành. Không chỉ để nâng chất lượng hình ảnh, âm thanh, mà còn để tối ưu chi phí, mở rộng thị trường trực tuyến.
Thứ ba, là con người và bản sắc văn hóa. Nhân lực là yếu tố then chốt. Cần đào tạo thế hệ đạo diễn, biên kịch, kỹ thuật viên trẻ chuyên nghiệp, hội nhập quốc tế. Nhưng hơn hết, họ phải mang trong mình hồn cốt Việt Nam. Bởi chỉ khi thấm đẫm bản sắc dân tộc, tác phẩm mới có sức chạm tới trái tim khán giả trong nước và tạo dấu ấn khác biệt trên bản đồ thế giới.
Nhìn lại hơn 70 năm, điện ảnh Việt Nam đã đi từ khói lửa chiến trường đến ánh sáng rực rỡ của hội nhập toàn cầu. Mỗi bộ phim là một khuôn hình ký ức, một thông điệp văn hóa, một mạch ngầm kết nối quá khứ với hiện tại và tương lai.
Điện ảnh không chỉ phản chiếu đời sống mà còn là tấm gương soi chiếu tâm hồn dân tộc. Từ Chung một dòng sông đến Hai Phượng, từ Cánh đồng hoang đến Mắt biếc, đó là hành trình chứng minh sức sống mãnh liệt của nghệ thuật thứ bảy Việt Nam.
Một nền điện ảnh nhân văn, hiện đại, giàu bản sắc, đó không chỉ là khát vọng của giới làm phim, mà còn là nhiệm vụ đối với đất nước. Khi điện ảnh thực sự trở thành ngành công nghiệp văn hóa mũi nhọn, chúng ta không chỉ có thêm những bộ phim để thưởng thức, mà còn có thêm niềm tự hào, thêm sức mạnh mềm để khẳng định Việt Nam trên trường quốc tế.