TRĂNG PHỒN XƯƠNG
|
VŨ TỪ TRANG
Ấy là đêm trăng thành Phồn Xương
đồi tung bụi lốc, cây ngả nghiêng
dáo mác lập lòe dựng bên suối
mây trời vần vụ, trăng đỏ ối
mặt trăng như một bát máu thề
nghĩa sỹ uống chung nguyện giết giặc.
Vó ngựa đổ về khua lộc cộc
mũi tên tập kích bay ràn rạt
tôi thấy Phồn Xương ngút khói hương
người lo thành quách, lo cao lương.
Ấy là đêm trăng thành Phồn Xương
trai làng gái làng đất Nhã Nam
súng đón máy bay giặc bổ kích
bao đạn bên sườn va lách cách
vàng ươm mấy chiếc mũ rơm tròn
hoa dẻ rừng thơm mái tóc mướt
và trăng đêm ấy khi hiện khuất
trăng như ánh mắt gái dân quân.
Đêm nay đêm nay trăng Phồn Xương
tiếng trẻ làng đồi hát ca vang
những bàn tay nhỏ múa đoàn kết
những bím tóc thơ bồng đuôi sóc
bên thành có người nghĩa quân già
ngắm trẻ nhỏ ca, đuôi mắt ướt
có đôi trai gái hẹn hò nhau
bên con đường nhỏ mát hàng cau
trăng thì cứ bổng theo gió thổi
mặt trăng như một trái dưa vàng
dát sáng Phồn Xương và thôn mạc
lòng tôi nghẹn lắm không hát được
lẩm nhẩm rừng cây với gió đồi.
LỜI BÌNH
Bài thơ nói đến đêm trăng Phồn Xương và đêm trăng “ngoài và sau Phồn Xương”, nếu hiểu địa danh Phồn Xương theo thói quen gắn với sự kiện lịch sử. Hai khổ đầu có thể dồn nhập thành một. Nếu vậy, độc giả sẽ thấy rõ khổ đầu là đêm trăng Phồn Xương thời chống Pháp, khổ tiếp theo là đêm trăng “sau Phồn Xương” thời chống Mỹ. Đêm sau, nhân dân ta vẫn còn tiếp tục đánh giặc, cho nên câu Ấy là đêm trăng thành Phồn Xương được lặp lại nguyên trạng. Sang khổ cuối, câu ấy được chuyển thành Đêm nay đêm nay trăng Phồn Xương. Cụm từ chỉ thời điểm hiện tại được lặp lại hai lần trong cùng một dòng thơ, cho thấy vẫn là Phồn Xương nhưng đã là đêm trăng sau năm 1975, “ngoài Phồn Xương” rồi. Hai đêm trăng trước được nhớ lại, cùng đồng hiện với đêm trăng hiện tại.
Chọn hình tượng trăng, trăng đêm, đêm trăng làm lõi cốt cho tứ thơ viết về chiến tranh thuở trước ở trường hợp này là một việc làm thông minh. Trăng ảo diệu. Trăng muôn thuở. Cách nhớ lại như thế sẽ gây ấn tượng, tạo ám ảnh. Ánh trăng góp phần làm nên ảo ảnh kỳ dị, cũng làm cho hiện thực trở nên cao cả, óng mượt. Trăng giúp nhà thơ gọi về cả một quá khứ oai hùng. Để rồi ngôn ngữ thơ từ đó bung xòe ra. Đây là từ tượng hình: đồi tung bụi lốc, cây ngả nghiêng, dáo mác lập lòe, mây trời vần vụ, mặt trăng như một bát máu thề, ngút khói hương…Và từ tượng thanh: vó ngựa đổ về khua lộc cộc/ mũi tên tập kích bay ràn rạt. Những từ láy được dùng dồn dập đã làm tăng giá trị biểu cảm của từ tượng hình và từ tượng thanh. Chỉ mười dòng thơ, tác giả dựng lên được một cảnh tượng, một khoảnh khắc chuẩn bị chiến đấu thật động, thật hoạt, có hồn. Viết về sự chuẩn bị chiến đấu cũng là cách viết thông minh. Đây không phải là trận đánh đẹp. Đây là sự chuẩn bị đẹp. Những câu thơ như găm vào trí não độc giả hình ảnh, âm thanh, sắc màu, không khí chuyển động nhộn nhịp, hối hả, quyết liệt của con người và thế giới chung quanh.
Bài thơ được nâng lên ở hai khổ thơ tiếp theo. Con cháu của nghĩa quân tiếp bước ông cha. Lần này là đánh Mỹ. Những hình ảnh đẹp mới: vàng ươm mấy chiếc mũ rơm tròn/ hoa dẻ rừng thơm mái tóc mướt. Cuối cùng là cảnh thanh bình sau hai công cuộc đánh giặc đại thắng. Ánh trăng lại tiếp tục tưới phủ xuống thiên nhiên, làm thấm mát tâm hồn trẻ nhỏ, đôi trai gái, người nghĩa quân già.
Ba hình ảnh trăng khác nhau ở ba khổ thơ: mặt trăng như một bát máu thề/ trăng như ánh mắt gái dân quân/ mặt trăng như một trái dưa vàng tương ứng với ba thời đoạn lịch sử của đất nước. Trăng chứng kiến và tham gia vào đời sống của con người. Để cuối cùng là: Đêm nay đêm nay / mặt trăng như một trái dưa vàng/ dát sáng Phồn Xương và thôn mạc.
Nhìn lại toàn bộ bài thơ, thấy rằng, hình như có sự vênh lệch từ ngữ giữa nhan đề Trăng Phồn Xương với nội dung đêm trăng. Thiển nghĩ, không hề vênh. Nhà thơ viết không cố ý, cũng chẳng vô tình. Nghệ thuật đã dẫn dắt ông. Nhan đề nói đến hình tượng toàn thể bao trùm của tác phẩm. Còn đêm trăng là không gian và thời gian hoạt động của hình tượng thơ.
Thấy lạ, viết về địa danh lịch sử, tại đó có vị anh hùng dân tộc mà lại không nêu tên. Cũng như bài thơ Trăng Hồ Tây của nhà thơ Võ Văn Trực, ca ngợi các danh nhân vào bậc nhất nhì của dân tộc mà không ai có mặt trên văn bản bài thơ. Vậy là, ở những trường hợp nào đó, nên tránh nhắc lại những điều đã biết. Ấy cũng là tránh lối mòn. Thế mới là tinh tế.
Trăng Phồn Xương được sáng tác bởi cảm hứng sử thi. Ngoại cảnh được mô tả rất thật mà lại ảo. Lời thơ, ý thơ dạt dào xúc cảm lãng mạn. Nhiều từ, cụm từ gây ấn tượng vừa mạnh vừa đằm.
Được tham gia vào một sự kiện tích cực về sáng tác và xuất bản thơ, khắc ghi độ chín của một bộ phận tác giả thế hệ nhà thơ chống Mỹ, cứu nước còn tiếp tục viết sau năm 1975, nhà thơ Vũ Từ Trang đã để lại một bài thơ như là vượt qua chính ông ở thời điểm sáng tác. Nhằm làm cho bài bình bớt khô khan và tăng thêm ý nghĩa, xin được nhắc lại lời tâm sự của ông: “Bài thơ được viết ra khi tôi đang ở trọ tại căn gác nhỏ của người bạn ở phố Mã Mây (Hà Nội). Ngày đó, tôi là phóng viên của một tờ báo. Cảm xúc về miền đất Yên Thế trữ tình và thượng võ, ám ảnh tôi. Rồi tứ thơ vụt hiện. Tôi viết một mạch xong bài thơ, khi quá nửa đêm. Viết bài thơ “Trăng Phồn Xương” khi tôi chưa được lên Phồn Xương. Sau này, có nhiều dịp về thăm Phồn Xương, cảm xúc về người và cảnh vật nơi đây vẫn giống y hệt thuở tôi viết bài thơ này”.