VẪN CHUYỆN THỊ MẦU
NGUYỄN LONG
|
Kẻ chê người trách Thị Mầu
Trăm năm vẫn chuyện miếng trầu mặn vôi
Khuất sau miệng lưỡi người đời
Đâu điều oan nghiệt, đâu lời thị phi
Yêu người yêu đến cuồng si
Nghĩ đâu của phật trơn lì rêu xanh
Muốn trồng cây cải không thành
Cái hôm thất vọng thân đành gió đưa
Trăm người ăn vụng táo chua
Chỉ riêng em mắc lưới thưa vạ làng
Bao nhiêu thước ngọc khuôn vàng
Vênh vao đo những trái ngang lỡ lầm
Một thời oan tiểu Kính Tâm
Đã về thành phật Quan âm trên chùa
Sân đình mỗi trận gió khua
Trái oan lăn lóc chát chua Thị Mầu.
LỜI BÌNH
Nếu nói Nguyễn Long bênh vực Thị Mầu thông qua bài thơ này thì cũng đúng. Bởi nếu không, ông đã chẳng tốn công tìm trong trăm ngàn điều chê trách của người đời với Thị Mầu, để mà phân định đâu điều oan nghiệt, đâu lời thị phi như thế.
Tình yêu từ ngàn đời nay vẫn luôn là một trạng thái tình cảm vô cùng phức tạp và khó lí giải ở con người. Có kẻ yêu đến cuồng si, đến mù quáng lại có người đã yêu thì bất chấp tất cả. Và như vậy, khi không được đáp lại thì nỗi chán chường, thất vọng mới càng trở nên sâu sắc. Ở Thị Mầu, ngoài trạng thái chung của những người đang yêu đó, còn mắc thêm một sai lầm nữa: Đặt tình yêu nhầm đối tượng. Vậy nên mới có Cái hôm thất vọng thân đành gió đưa éo le và trớ trêu như thế.
Tác giả đã gói trọn bao ê chề, đau xót đến buông xuôi của Thị Mầu trong tám âm tiết đó. Ta như thấy hiện lên trước mắt những bước chân vô hồn của nàng đang xiêu vẹo trên con đường khát khao bản năng hun hút. Có thể nhiều người xem trích đoạn Thị Mầu lên chùa cảm thấy thích thú bởi những đối đáp, những tình huống gây cười, chứ mấy ai phát hiện ra rằng: Trăm người ăn vụng táo chua/ Chỉ riêng em mắc lưới thưa vạ làng như tác giả?
Vượt ra ngoài câu chuyện bi hài của Thị Mầu, Nguyễn Long đưa vào thơ thật tự nhiên những ngẫm ngợi mang tính triết lí sâu xa: Bao nhiêu thước ngọc khuôn vàng/ Vênh vao đo những trái ngang lỡ lầm. Từ láy vênh vao được xử dụng thật đắt, nó làm cho cái thước ngọc khuôn vàng vô hình mà ghê gớm của xã hội phong kiến xưa bỗng trở nên vô duyên, kệch cỡm. Hay nói một cách khác, tác giả đã chỉ ra rằng: Chính Thị Mầu cũng là người bị oan! Đây là cái nhìn mới mẻ so với vở chèo Quan âm Thị Kính và người đời lâu nay. Cái nhìn nhân đạo, dân chủ, cảm thông với người phụ nữ trong vấn đề yêu đương, tình dục.
Bài thơ rất có không khí, giọng thơ rất phù hợp với tính cách của đối tượng Thị Mầu nhờ một loạt hình ảnh sống động, đẹp và sắc sảo: Nơi cửa phật thì trơn lì rêu xanh, sân đình thì trái oan lăn lóc, rồi Bao người ăn vụng táo chua/ Chỉ riêng em mắc lưới thưa vạ làng. Cái quan niệm cổ hủ, lạc hậu, trái với tự nhiên của thời phong kiến thì trở thành thước ngọc khuôn vàng để vênh vao đo những trái ngang lỡ lầm…
Để có được những hình ảnh sống động, sắc sảo như vậy hẳn tác giả đã phải nhập thân được vào thời đại, vào nhân vật. Đó là nhờ vốn sống, vốn đọc, vốn hiểu biết mà sáng tạo nên.
Cuộc đời nếu có luật bù trừ thì điều đó chỉ đúng với riêng Thị Kính: Một thời oan tiểu Kính Tâm/ Đã về thành phật Quan Âm trên chùa. Còn với Thị Mầu thì: Sân đình mỗi trận gió khua/ Trái oan lăn lóc chát chua Thị Mầu. Oan Thị Kính thì người đời ai cũng biết nhưng oan Thị Mầu thì có lẽ đây là lần đầu tiên. Và cái oan đó nó kết lại, nó vật hóa thành trái cây rất cụ thể, rất cảm giác. Cái trái oan ấy nó không chỉ lăn lóc ở sân chùa, nó còn lăn lóc ở giữa đời và sẽ còn lăn lóc mãi.
Bài thơ mang tính nhân văn và có tính thời sự cao. Đó phải chăng luôn là cái đích mà người sáng tác cần hướng đến./.