Sự kiện & Bình luận

Chuyện của Tân

Nguyễn Vũ Điền
Bút ký phóng sự
19:00 | 26/12/2024
Baovannghe.vn- Phút đoàn tụ của những người lính đã từng chung chiến hào sau mấy chục năm trời mới gặp lại nhau thật ồn ào và náo nhiệt. Những lời chào, những cái ôm, những cái bắt tay siết chặt, những nụ cười và cả những giọt nước mắt đã rơi, khiến ai cũng cảm thấy rưng rưng hạnh phúc.
aa

1.

Có người nói, chiến tranh đã kết thúc lâu rồi, giờ là thời nào mà cứ nhắc lại những năm tháng đạn bom và chết chóc làm chi cho mệt. Nhiều khi tôi cũng nghĩ vậy. Muốn rằng những kỉ niệm hôm qua, hãy ngủ yên, bởi xã hội đang biến đổi từng ngày, hơi đâu mãi gặm nhấm những kỉ niệm đã trở nên xưa cũ trong kí ức của mình.

Chuyện của Tân
Ông Hoàng Sơn đang cõng ông Tân vào Cao Mêlai năm 2011

Nhưng rồi hàng ngày, trên mạng xã hội, đồng đội tôi vẫn đang khắc khoải. Chiến tranh đã qua đi, nhưng trong tâm khảm của những người lính trận; trong thẳm sâu nỗi lòng của những bà mẹ mất con, những người vợ mất chồng; trong nỗi đau về thể xác và tinh thần của những người lính mất đi một phần thân thể bởi bom đạn của kẻ thù, thì chiến tranh chưa bao giờ kết thúc, nó vẫn đang day dứt, giống như ngọn lửa, hàng đêm vẫn cháy âm ỉ trong mỗi con người.

Dẫu chiến tranh đã kết thúc lâu rồi

Anh hãy hỏi những người trung thực

Họ đều nói một câu duy nhất

Rằng chiến tranh không kết thúc điều gì

(Thơ Đoàn Tuấn)

2.

Tháng 8 năm 2017, từ Sơn La, tôi bay vào thành phố Hồ Chí Minh dự Lễ kỉ niệm 70 năm thành lập Trung đoàn 174 và gặp mặt đồng đội.

Phút đoàn tụ của những người lính đã từng chung chiến hào sau mấy chục năm trời mới gặp lại nhau thật ồn ào và náo nhiệt. Những lời chào, những cái ôm, những cái bắt tay siết chặt, những nụ cười và cả những giọt nước mắt đã rơi, khiến ai cũng cảm thấy rưng rưng hạnh phúc.

Tối hôm đó, Hoàng Sơn và Đỗ Anh Dũng đưa tôi đến thăm Tân - đồng đội của tôi - một thương binh nặng hiện đang sống tại quận 8, thành phố Hồ Chí Minh. Câu chuyện chúng tôi được nghe đêm đó khiến tôi thực sự xúc động và cảm phục. Một thiên tình sử thời hiện đại, một tình đồng đội sáng ngời và những trắc ẩn, những hận thù sau cuộc chiến đã được xóa bỏ một cách hết sức nhẹ nhàng và ấm áp tình người.

Phạm Văn Tân sinh ra trong một gia đình lao động ở quận 8 thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1979, Tân tốt nghiệp phổ thông. Đó cũng là lúc cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam đang diễn ra hết sức cam go và quyết liệt. Hằng ngày, nghe thông tin về những tội ác man rợ mà bọn đồ tể Pôn Pốt gây ra đối với nhân dân ta dọc các tỉnh biên giới Tây Nam, Tân cảm thấy bứt dứt. Ngay sau khi có Lệnh Tổng động viên của Chủ tịch nước, không chút chần chừ, Tân giấu má lên quận đăng kí nhập ngũ. Bữa đi khám sức khỏe, vì nhà không có xe, Tân ôm eo mấy người bạn lên thẳng quận đội. Lúc trở về, biết tin Tân đi khám nghĩa vụ quân sự, má la quá trời. Rồi má khóc, má nói: “Mầy không thương tau thì mầy cũng phải thương mấy đứa nhỏ với chứ. Ba mầy mất sớm, bỏ lại cho tau sắp nhỏ nầy. Má nuôi mầy đi học, đặng lớn lên đi làm kiếm cơm, kiếm gạo giúp má nuôi mấy đứa em để má đỡ khổ. Vậy mà rồi mầy lại đi… Ở nhà rồi má dựa vào ai hả Tân?”

Những câu nói của má khiến Tân suốt mấy đêm liền thao thức. Thương má lắm. Thương cả mấy đứa em nữa. Nhưng không đi bây giờ thì biết bao giờ mới đi được. Vậy rồi, mấy đêm sau đó, Tân nài nỉ với má, dần dần má cũng xiêu lòng. Lại nghe trong khóm có mấy đứa bạn của Tân cũng đi đợt này. Thế là má đồng ý cho Tân đi theo lũ bạn. Ngày 26/3/1979, Tân trở thành bộ đội.

Sau mấy tháng huấn luyện ở quân trường Quang Trung, Tân được đưa sang Campuchia và biên chế về Trung đội trinh sát của Tiểu đoàn 7, Trung đoàn Q.16, Sư đoàn bộ binh 5. Khi đó, đơn vị của Tân đang chốt ở Cao Mêlai, tỉnh Beantay Meanchay. Bữa vào đơn vị, Tân viết thư về cho má: “Má à, con đã vào đến đơn vị rồi má. Đơn vị con đã sang đất Campuchia và đang giữa mùa chiến dịch. Chắc cũng chẳng lâu lắm đâu, bọn Pôn Pốt sẽ bị tiêu diệt, con sẽ trở về, lấy vợ, đẻ cho má cả tá cháu để má bồng. Má đừng lo gì cho con nha. Má ở nhà ráng giữ gìn sức khỏe. Con của má: Tân.”

Trong mắt của một lính mới “ăn chưa no, lo chưa tới”, việc được làm những điều mình yêu thích là niềm vui không gì sánh được. Không còn phải lo lắng chuyện học hành, bài vở. Vào bộ đội, được mặc quân phục mới, được rèn luyện để trở thành một người lính Cụ Hồ, được “vượt biên” sang Campuchia… là những điều mà bạn bè ở nhà có mơ cũng chẳng được...

Nhưng Tân không biết rằng, Cao Mêlai - địa bàn tác chiến chính của Trung đoàn Q16 trong thời gian đó - được mệnh danh là “cao điểm tử thần”, là “vùng đất chết”, một địa bàn rất hiểm trở, nơi “rừng thiêng nước độc”, nơi “khó thoái, khó giữ” nhất của Sư đoàn 5 trong những năm chiến đấu khốc liệt trên chiến trường Campuchia. Những ngày sau đó, Tân càng hiểu hơn về chiến trường, về những gian nan, vất vả mà người lính phải trải qua cũng như những gian khổ, căng thẳng và hi sinh của chiến tranh. Con đường từ Nimit vào Cao Mêlai, chạy ngoằn ngoèo ngay sát đường biên Campuchia - Thái Lan, xuyên qua những cánh rừng tre gai nhọn hoắt, dưới bóng của những tán cây cổ thụ. Mùa mưa, mặt đất nơi này lúc nào cũng ướt nhoẹt và loãng ra như cháo. Những con vắt xanh, vắt đỏ từ trên thân tre, búng tanh tách vào thân thể người lính rồi thi nhau hút máu. Máu hòa với nước mưa, chảy dọc theo ống quần, nhỏ tong tong xuống mặt đất ẩm ướt. Còn muỗi nữa, chúng bay như ong vỡ tổ và bất cứ lúc nào chúng cũng sẵn sàng nhè vào đầu, vào cổ, vào chân tay những người lính mà đốt. Người thì ít mà muỗi thì nhiều, đánh mãi cũng chán, đành để chúng tra tấn bởi không thể chống cự.

Chuyện của Tân
Vợ chồng ông Tân, bà Kim Anh trong ngày cưới.

Ngày nào cũng như ngày nào, bọn địch từ bên kia biên giới thường xuyên mò sang tập kích và gài mìn khắp địa bàn đứng chân của đơn vị. Ngày nào anh em cũng phải nổ súng và ngày nào cũng có thương vong. Những trận đánh trong những cánh rừng tre gai dày đặc, khiến những người lính liên tưởng đến trò chơi ú tim thời nhỏ. Cứ nghe tiếng súng của địch ở hướng nào thì rê mũi súng về hướng đó mà bắn, bởi không thể nhìn thấy chúng. Những khó khăn ở Cao Mêlai và sự khốc liệt của chiến tranh hiện lên rõ ràng trên những khuôn mặt võ vàng của những người lính trận. Đồng đội của Tân hi sinh bởi mìn, bởi sốt rét ác tính, bởi hồng cầu bị vỡ, dẫn đến bệnh huyết sắc tố nhiều hơn chết trận. Chứng kiến cái chết của đồng đội, ai cũng nghĩ rằng một ngày nào đó thần chết sẽ gọi tên mình. Khó khăn, gian khổ là vậy mà Tân và những người lính Q.16 vẫn phải sống, vẫn phải bám trụ tại nơi này suốt mấy năm trời. Nhiều hôm, dưới trời mưa, tiểu đoàn của Tân lội bì bõm trong bùn lầy, quần thảo với địch suốt dọc con đường để giành lại những điểm cao mới bị chúng tái chiếm.

Cuối năm 1980, trong một lần dẫn bộ đội đi lấy nước, vì đi đầu đội hình nên Tân giẫm phải một trái mìn. Vừa nhấc chân lên, một tiếng nổ “bép… uỳnh” vang lên bên tai. Rồi anh ngất đi không biết gì nữa… Anh không chết, nhưng trái mìn đã cắt gọn hai chân và trên mình anh mang đầy thương tích. Tân được đồng đội cáng về sơ cứu rồi vận tải sư đoàn chuyển anh về trạm phẫu tại Sisophon. Đầu năm 1981, anh được chuyển về Bệnh viện 175 tại thành phố Hồ Chí Minh điều trị. Sau khi vết thương lành, Tân ra viện, xuất ngũ, trở về trên chiếc xe lăn.

3.

Những ngày nằm viện, Tân buồn lắm. Đôi chân đã đưa anh tới trường suốt thời thơ trẻ, đôi chân đã cùng anh lội bùn bắt cua, bắt cá, giúp má nuôi các em không còn nữa. Với cơ thể tàn phế này, anh sẽ làm gì để sống? Rất nhiều đêm anh trăn trở với tương lai của mình. Thương má, thương các em vô kể…

Rồi hạnh phúc bất ngờ đã đến với Tân. Cùng phòng bệnh với Tân là một đồng đội cũ. Trần Bá Hiệp là dân quận 3, cùng nhập ngũ sau tổng động viên, nhưng là lính Sư đoàn 302. Hiệp bị cụt một chân. Hai người lính có cùng cảnh ngộ, ở chung một phòng bệnh nên thương nhau lắm. Thời gian điều trị dài đằng đẵng, nên họ đã có nhiều đêm tâm sự, kể cho nhau nghe về gia cảnh của mình.

Hiệp có một cô em gái tên là Trần Thị Kim Anh. Năm đó, Kim Anh vừa tròn 18 tuổi. Thương anh bị thương tật, nên ngày nào Kim Anh cũng lên chăm sóc anh mình. Cô chăm chỉ lau dọn phòng bệnh, mua đồ, nấu cơm và giặt giũ quần áo, tắm rửa cho anh. Thương người bạn cùng phòng của anh, nên nhiều khi Kim Anh làm luôn những công việc giúp Tân khi người nhà Tân chưa đến kịp. Cô làm những công việc ấy một cách tự nhiên như một người em gái đối với hai người anh của mình mà không hề e ngại.

Một đêm nọ, cả phòng đang ngon giấc, bỗng nghe tiếng “Uỵch...” tiếp đó là những tiếng rên cố nén trong lồng ngực. Kim Anh nằm trên chiếc giường gấp gần đó vội chạy lại bật đèn. Thấy Tân đang nằm dưới đất, đôi tay chới với tìm thành giường. Cô cố dùng tất cả sức mình để nhấc Tân lên. Nhưng vì hai chân của Tân cụt hết, nên loay hoay mãi, Kim Anh vẫn không biết làm cách nào đưa Tân lên giường được. Cô đành vòng tay ra sau lưng, ôm chặt lấy anh, và bằng tất cả sinh lực đang xuân của người thiếu nữ, nhấc bổng anh lên giường. Lúc cô ôm anh, cả khuôn ngực thanh tân căng tràn sức sống của cô ép sát ngực Tân, mùi thơm từ da thịt cô áp sát mặt Tân khiến anh ngây ngất. Bộ râu lâu ngày không cạo của Tân cọ vào má Kim Anh làm cô cảm thấy e ngại...

Nằm xuống giường, Tân nói nhỏ, đủ để mình Kim Anh nghe thấy: “Anh xin lỗi. Anh định đi vệ sinh, nhưng cứ nghĩ là mình còn cả hai chân nên mới ngã, làm khổ cho em.” Kim Anh cười. Cô nhìn anh với ánh mắt dịu dàng và thương cảm. Rồi cô lấy bô ra, kéo quần anh xuống, nói nhỏ: “Em đã nói rồi. Anh đừng ngại, cần gì cứ gọi em, chứ ngã vậy rồi khổ. Anh có đau lắm không?” Tân lắc đầu. Anh nhoẻn cười, nhìn cô ngượng ngùng và thấy biết ơn.

Kim Anh đắp chăn cho Tân và từ khóe mắt cô, những giọt nước mắt lăn dài trên má. Sự va chạm bất ngờ khiến cả hai người trằn trọc, không sao ngủ tiếp được. Có một điều gì đó rất lạ khiến Tân và Kim Anh rung động. Những ngày sau đó, Kim Anh vẫn luôn quan tâm, chăm sóc Tân, nhưng ánh mắt cô luôn lẩn tránh ánh nhìn của anh. Cô ngại ngùng không dám nói ra điều mình suy nghĩ.

Rồi một ngày, lựa lúc anh trai không có trong phòng bệnh, Kim Anh mạnh dạn ngỏ lời yêu với chàng thương binh trẻ. Tân sung sướng nhận lời, bởi trong suy nghĩ, anh đã thầm yêu cô từ khi cô tới chăm sóc Hiệp mà không dám nói. Điều khiến anh băn khoăn suy nghĩ là với cơ thể không toàn vẹn này, liệu anh có còn mang lại hạnh phúc cho cô được hay không?

Khi biết tin em gái mình yêu Tân, Hiệp kiên quyết phản đối. Hiệp nói thẳng với Tân:

- Nè Tân, nghe tao nói nè. Tao mất một chân còn khổ thế này. Mầy mất cả hai chân sao lo nổi cho em tao mà mầy định lấy nó? Tao rất thương mầy, nhưng mầy hãy thương nó… Thôi, dẹp đi.

Ba má Kim Anh khi biết tin Kim Anh yêu Tân cũng không đồng ý. Họ thương con gái mình và không muốn Kim Anh phải khổ khi kết duyên với một người tàn tật. Điều khiến mọi người ngăn cản cũng là suy nghĩ của Tân. Anh không muốn mình trở thành gánh nặng cho Kim Anh, nên đã rất nhiều lần nói lời chia tay. Nhưng vượt lên tất cả, Kim Anh cương quyết yêu Tân, chấp nhận tất cả những khó khăn sẽ đến khi làm vợ của anh.

Suốt 4 năm trời, hai người bền bỉ vượt qua mọi trở ngại và thử thách để đến với nhau. Biết không thể ngăn cản được tình yêu của đôi trẻ, cuối cùng mọi người phải đồng ý cho hai người xây dựng gia đình. Năm 1985, Tân và Kim Anh làm lễ kết hôn. Một cô gái xinh đẹp, mặc chiếc áo cưới lộng lẫy, ôm xiết lấy chàng thương binh cụt cả hai chân, ngồi trên chiếc ghế được phủ hoa trắng muốt là tấm ảnh của vợ chồng Tân chụp trong ngày cưới. Tấm ảnh quý giá ấy Kim Anh vẫn giữ đến tận hôm nay.

Những năm tháng tiếp theo của vợ chồng Tân là những năm tháng cơ cực. Má đã quá già, các em lần lượt đi xây dựng gia đình, công ăn việc làm chẳng có. Với chút tiền thương tật, vợ chồng Tân góp với má sửa sang lại ngôi nhà và rời trại thương binh, về sống cùng với má. Kim Anh vốn là một phụ nữ chịu thương chịu khó, nên cô đã thay anh gánh vác công việc gia đình. Năm tháng trôi qua, những khó khăn dần vơi bớt. Hai đứa con của anh chị, con trai sinh năm 1986, con gái sinh năm 1994 giờ đã trưởng thành, có hạnh phúc riêng, có việc làm ổn định. Các con, các cháu hết lòng yêu thương và kính trọng ba mẹ, ông bà.

Hơn bốn mươi năm trời chung sống, dù kinh tế còn nhiều khó khăn, dù ốm đau bệnh tật nhưng không khi nào Kim Anh ân hận về quyết định của mình. Còn Tân, mỗi khi nhắc đến Kim Anh, anh luôn dành cho chị tình yêu thương sâu sắc. Anh chia sẻ: “Cô ấy rất vất vả. Hồi con còn nhỏ, có mấy lần Kim Anh bị bệnh nặng, phải nằm viện, phải có người thân chăm sóc, má đã mất, nên hết thảy mọi việc đều nhờ bà con lối xóm. Xóm mình rất tốt, mọi người thay nhau chăm sóc Kim Anh trong viện, lại còn giúp mình chăm giữ hai đứa con ở nhà.”

Giờ thì khó khăn đã qua. Nhưng với bản tính cần cù và chịu khó, ngoài việc chăm sóc chồng và các cháu, những lúc rảnh, người đàn bà hơn 60 tuổi này vẫn chạy xe công nghệ để kiếm thêm thu nhập cho gia đình. Hạnh phúc của anh chị thật viên mãn. Tiếng nói, tiếng cười của con cháu làm cho vợ chồng anh chị thật sự ấm lòng. Những kỉ niệm về những năm tháng chiến tranh cũng nguôi dần trong kí ức của chàng thương binh nặng.

4.

Rồi một ngày cuối năm 2011, Hoàng Sơn và Đỗ Anh Dũng - những đồng đội cùng nhập ngũ với Tân và cũng là đồng đội Sư đoàn 5 trên chiến trường Campuchia - đến thăm anh.

Sau khi nhâm nhi ly cà phê do Kim Anh mang tới, Sơn nói: “Tân à, tới đây, bọn tao tổ chức sang Campuchia đấy, mầy muốn đi không?” Tân nhướng cặp mắt lên nhìn Sơn không chớp, anh không tin ở tai mình. Dũng tiếp lời: “Đi đi, chần chừ chi nữa trời… Chuyện tiền bạc để đó bọn tao lo. Bọn tao đã bàn rồi, chúng tao sẽ cõng mầy vô Cao Mêlai tìm lại đôi chân của mầy.”

Tân khóc. Một người lính đã từng vào sinh ra tử mấy chục năm trước chưa hề biết khóc, ngay cả lúc trái mìn KP2 nhảy lên, tiện đứt cả hai chân, anh cũng không khóc. Vậy mà nay, trước mặt đồng đội, anh khóc òa lên như một đứa trẻ. Anh cảm động trước nghĩa tình đồng đội, trước tình cảm của những người lính dành cho nhau sau cuộc chiến.

Đối với những người lính trận thì chỉ cần được sống và trở về đã hạnh phúc lắm rồi, dù cơ thể không còn lành lặn, dù sau đó, cuộc sống có thế nào chăng nữa cũng chẳng khiến họ bận tâm. Bởi được sống, được tồn tại trên cõi đời này sau khi đã trải qua những biến cố lớn nhất của cuộc đời là niềm vui sướng đến tột cùng của mỗi con người. Những lần gặp lại đồng đội, nghe anh em rôm rả kể về những chuyến trở lại Campuchia, anh như nuốt từng lời. Tân như được sống lại với những năm tháng chiến trường. Tân nhớ những người bạn đã hi sinh, những đồng đội đã trở về nhưng không lành lặn… Anh ước mơ được trở lại Campuchia, trở lại nơi đã in dấu chân mình suốt một thời trai trẻ; trở lại để thêm một lần được nhìn thấy những đổi thay của những vùng đất đã hằn sâu trong tâm trí mình suốt mấy chục năm qua, làm vơi đi nỗi ám ảnh về chiến tranh; trở lại nơi đã khiến anh mất cả đôi chân, làm thay đổi cuộc đời anh sau cuộc chiến. Nhưng anh hiểu, điều đó đối với anh là quá xa xỉ, chưa bao giờ anh dám nghĩ đến việc sẽ trở lại Cao Mêlai, bởi với một người thương tật như anh, thì để vượt chặng đường cả ngàn cây số, lại phải đi bộ vào những địa danh năm xưa không hề đơn giản.

Vậy mà nay mong ước ấy đã thành sự thực. Đồng đội của anh đã dành cho anh những điều chưa bao giờ anh dám nghĩ. Anh vui sướng đến tột cùng, ôm lấy Sơn và Dũng mà khóc.

5.

Chuyến trở lại Campuchia năm ấy, chiếc xe ca 16 chỗ ngồi của đoàn chở theo một chiếc xe lăn.

Khi đến Cao Mêlai, xe phải dừng lại cách chân điểm cao khoảng một km. Mọi người đặt Tân lên xe, đẩy anh vào chân núi, nơi diễn ra những trận đánh năm nào. Đi được một đoạn, xe lăn không thể đi được. Sơn, Dũng, Mỹ và mấy anh em thay nhau cõng Tân vào nơi năm xưa anh giẫm phải trái mìn của Pốt.

Khi mọi người sắp trái cây, đồ lễ ra cúng, Dũng thì thầm vào tai Tân: “Mày để ý nhé, khi nào thắp nhang, đốt tiền và đồ mã, gió sẽ nổi lên đấy.” Và quả đúng như vậy, trời đang nắng chang chang, chẳng có tí gió nào, vậy mà khi điệu nhạc Chiêu hồn tử sĩ nổi lên, anh em đốt tiền mã, gió bỗng bốc lên cuồn cuộn, tạo thành những vòng xoáy, cuốn hết tro than bay thẳng lên trời…

Giữa khung cảnh linh thiêng ấy, chị Mỹ Hoa, một ca sĩ của Đội tuyên văn Sư đoàn 5 ngày nào, đang hát tặng các liệt sĩ bài hát Màu hoa đỏ: Có người lính, mùa thu ấy, ra đi từ mái tranh nghèo. Có người lính mùa xuân ấy, ra đi từ đó không về… Dòng tên anh khắc vào đá núi… Hát tới đó, giọng chị nghẹn đắng trong nước mắt, chị khóc nức nở và không thể hát tiếp được nữa. Cả đoàn lặng đi trong cảm xúc. Dường như đồng đội đã trở về quanh ngọn lửa, đón nhận những tình cảm thân thương từ Việt Nam mang sang. Anh Huỳnh Lê Phước, được giao nhiệm vụ quay video cho đoàn cũng ngẩn người, quên cả nhiệm vụ được giao…

Khi anh em đang thắp nhang, khấn vái hương hồn các đồng đội thì một người đàn ông với thân hình đen bóng, mái tóc quăn tít, bộ ngực trần, chiếc xà rông quấn quanh mình như những người đàn ông Campuchia mà chúng tôi đã gặp hơn 40 năm trước, từ ngôi nhà sàn lợp lá thốt nốt gần đó bước tới. Ông chắp đôi bàn tay đen đúa lên trước ngực, chào chúng tôi, rồi rụt rè xin anh em một thẻ hương đang cháy, quỳ hai đầu gối trần xuống đất vái lạy về hướng mâm lễ.

Chờ cho ông ta tĩnh tâm, Sơn hỏi: “Nhà ông ở đây à?” Ông ta chỉ về ngôi nhà phía sau rồi nói: “Vâng, nhà tôi đây. Trước đây tôi là lính của Pốt. Tôi cũng đánh nhau ở vùng này. Sau giải phóng, Chính phủ Heng Somrin cấp đất, cho tiền để chúng tôi dựng nhà ở đây. Mảnh đất này là đất của gia đình tôi được cấp. Nay thấy các ông sang, tôi xin được thắp một nén nhang cho những người đã chết.”

Lúc nghe thấy câu “Trước đây tôi là lính của Pốt. Tôi cũng đánh nhau ở vùng này”, đôi mắt Tân vằn lên dữ dội. Anh như thấy đây chính là kẻ đã làm cho anh và biết bao đồng đội đã phải hi sinh xương máu trong những trận đánh khốc liệt năm nào. Nhưng rồi, những cử chỉ và lời nói của ông ta khiến anh dịu lại, anh chăm chú nhìn ông ta như để thấy trong con người kia, có điều gì bí mật cần khám phá.

Đúng lúc ấy thì trời đổ mưa. Những hạt mưa to tướng rơi lộp bộp xuống mặt đất nóng ran. Người lính Pốt già đon đả: “Trời mưa rồi, các ông chưa về ngay được đâu, sẽ ướt hết. Mời các ông về nhà tôi trú mưa đã.” Nói rồi, ông ta đẩy chiếc xe chở Tân về phía ngôi nhà. Về tới cầu thang, ông ghé vai cõng Tân lên nhà rồi ríu rít gọi các con mang nhãn, chôm chôm ra mời cả đoàn. Ông vui vẻ: “Những thứ hoa quả này đều trồng trên đất này đấy. Xin mời các ông các bà ăn đi. Ngon lắm.”

Chuyến trở lại Campuchia của Tân cách đây đã hơn chục năm rồi, vậy mà lúc kể lại cho chúng tôi nghe, những cảm xúc của Tân vẫn như còn nguyên vẹn. Anh đã hoàn thành tâm nguyện của đời mình, trở lại mảnh đất đã làm thay đổi cuộc đời anh và cũng chứng kiến mảnh đất bom đạn năm xưa nay đang đơm hoa kết trái…

6.

Cuộc chiến mà tôi và đồng đội tôi được tham gia cách đây đã gần nửa thế kỉ. Rất nhiều câu chuyện cảm động về tình yêu, tình đồng chí đồng đội, tình đoàn kết giữa những người lính tình nguyện Việt Nam với người dân đất nước Chùa Tháp và cả những câu chuyện hậu chiến nữa, vẫn in đậm trong tâm khảm của tôi và những người lính trận. Họ đã trở về, vẫn đau đáu được nhớ lại những năm tháng đáng sống nhất của cuộc đời mình… Nếu không ai viết thì những câu chuyện ấy sẽ mai một theo thời gian. Các bạn vẫn nhắc tôi, rằng hãy viết đi khi còn có thể.

Đại tá, nhà văn Nguyễn Văn Hồng, nguyên Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân Đoàn 4, tác giả của nhiều cuốn sách viết về cuộc chiến tại Campuchia, năm nay đã ngoài 80 tuổi nhắn tôi: “Cậu nên tiếp tục viết đi. Văn học đang rất cần những tác phẩm như thế. Nó không chỉ giá trị bởi tác phẩm do chính người trong cuộc viết ra, mà còn lột tả về bản chất của chiến tranh. Cái ác liệt, chết chóc không dành riêng cho bên nào và không nên né tránh…” Những tâm sự từ gan ruột của người chỉ huy suốt cuộc đời chinh chiến và của đồng đội tôi khuyến khích tôi tiếp tục cầm bút.

Và tôi viết. Viết cho mình. Viết cho những đồng đội đã trở về từ sau cuộc chiến và viết cho cả những người mãi mãi không thể trở về để tri ân họ. Họ đã ngã xuống, hoặc mất một phần thân thể để cho tôi được sống đến hôm nay.

Văn học Việt Nam ở nước ngoài hòa vào dòng chủ lưu văn học dân tộc

Văn học Việt Nam ở nước ngoài hòa vào dòng chủ lưu văn học dân tộc

Baovannghe.vn - Văn học Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận của nền văn học nước ta. Những thành tựu đặc sắc của bộ phận văn học này trong nửa thế kỷ qua góp phần đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc.
Thơ của anh còn tạc trên vách đá...

Thơ của anh còn tạc trên vách đá...

Baovannghe.vn - Phạm Tiến Duật là niềm tự hào của đất nước, niềm tự hào của mỗi người lính, niềm tự hào của mỗi chúng ta. Anh là một đỉnh cao của thơ ca chống Mỹ, là một con đại bàng hùng vĩ của Trường Sơn, và nơi ấy, mỗi đỉnh núi cao, mỗi cánh rừng sâu, như vẫn còn tạc trên vách đá, vẫn còn vọng trong tiếng gió rừng những bài thơ bất hủ của anh...
Tổ chức Festival Nhiếp ảnh trẻ 2025

Tổ chức Festival Nhiếp ảnh trẻ 2025

Baovannghe.vn - Thứ trưởng Bộ VHTTT&DL Tạ Quang Đông vừa ký công văn 486/BVHTTDL- MTNATL gửi Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh về tổ chức Festival Nhiếp ảnh trẻ
Tổ chức Tổng kết và trao Giải thưởng Phát triển văn hóa đọc lần thứ VII

Tổ chức Tổng kết và trao Giải thưởng Phát triển văn hóa đọc lần thứ VII

Baovannghe.vn - Thứ trưởng Bộ VHTT&DL Trịnh Thị Thủy vừa ký Quyết định 269/ QĐ- BVHTTDL tổ chức Lễ Tổng kết, trao Giải thưởng Phát triển văn hóa đọc lần thứ VII
Việt Nam trong mắt của những người con xa xứ: “Chào Việt Nam”

Việt Nam trong mắt của những người con xa xứ: “Chào Việt Nam”

Baovannghe.vn - Tối 13/2, Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM khai mạc triển lãm “Chào Việt Nam”. 99 tác phẩm tranh được giới thiệu đến công chúng tới hết ngày 21/2/2025.