Tác giả Trang Thụy, tên thật Nguyễn Thị Trang, sinh ra và lớn lên tại Hà Tĩnh, tốt nghiệp Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Ra trường, chị chọn lập nghiệp tại Hà Nội, tới với văn chương từ những năm 2013 mãi cho tới 3 năm gần đây, chị mới thực sự viết và ghi dấu ấn đậm nét với tập truyện ngắn đầu tay - “Còn một đợt rét chót, đêm nay sẽ về”.
Tập truyện ngắn, gồm 11 tác phẩm được xếp thứ tự theo tiến trình sáng tác, càng về sau, câu chữ càng được chuốt, gọt và gây ấn tượng mạnh. Đọc “Rét” của Trang Thụy, tôi tưởng tượng mình đang thưởng thức những món ăn được phục vụ theo tiêu chuẩn “năm sao”. 11 truyện ngắn là 11 món ăn, mỗi món một chút thế nhưng, ai đã từng được nếm qua một lần, hẳn sẽ không thể quên bởi sự tinh tế, hoàn hảo về nội dung và hình thức.
Từng con chữ, từng câu văn được chuốt, vót kỹ càng, tính tới tính lui, như lôi hết ruột, gan ra. Ngôn từ không ào ào, không trôi vuột đi mà được chắt chiu, gom góp từng chút một. “Rét” không phù hợp với ai đọc lướt, đọc vội để sớm biết cái kết. Tôi đã từng sốt sắng, muốn biết số phận của các nhân vật sẽ đi đâu về đâu nhưng thể nào sau đó, cũng phải ngược trở lại. Hãy đi thật chậm, vừa đọc vừa ngẫm như vừa ăn vừa tận hưởng, nghe mùi vị thấm dần và lan tỏa. Đừng vội đọc tiếp, hãy cảm nhận cho hết dư âm, dư ba của những câu văn ngắn, giàu chất thơ và triết lý.
|
Khi đọc tập truyện lần 2, tôi phấn khích vì vẫn còn nhiều chỗ phải “ồ” lên, những chỗ đã đọc lướt trước đó. Hình ảnh ẩn dụ, ngôn ngữ độc đáo, riêng biệt sẽ gây “ngộp thở” cho người đọc, nếu bạn muốn đọc để giải trí thì tôi khuyên không nên chọn “Rét”.
Tác giả Trang Thụy đã nói: “Tôi quan niệm văn chương như muối, người viết văn như một diêm dân. Khi nắng to, nước bốc hơi hết sẽ để lại những tinh thể mặn mòi, sắc vót. Văn chương cũng vậy, tôi muốn từng câu chữ của tôi là muối trên cánh đồng chữ nghĩa vốn ngổn ngang và đầy màu sắc…”
“Văn chương như muối” nên không thể đọc lướt được, nó đòi hỏi về thời gian và sự tập trung. Thêm nữa, Trang Thụy viết truyện mà như đang vẽ tranh. Mỗi truyện ngắn là một bức tranh vẽ về miền sơn cước, cuộc sống dưới chân núi với những hình ảnh được vẽ bằng thứ văn tôi chưa từng gặp ở đâu. Đó là, “ngọn đá trắng đổi màu lam thạch, trong muốt và mát rượi”, là “ngọn đồi hình giọt nước, giọt chồng giọt thấm vào dãy đá trắng già cỗi. Mây nháo nhác tan như giọt mực nhỏ vào giọt nước”, là “con đường lên bản giòn như quẩy rán ráo mỡ. Cả rừng săng vong vỏng đu lên cao, nhuộm rực khoảng trời màu tro bếp”...
Với chi tiết độc đáo, câu chữ gạn gùng, Trang Thụy đã thành công trong việc sử dụng “mảng màu tự thân” để hoàn thiện bức tranh mang tên mình. Cốt truyện không mới, có ý kiến cho là “mờ nhạt”, ngôn ngữ “hằn học”. Theo nhà văn Hiền Trang, “văn chương không cần cốt truyện, văn hay trước hết là ở câu chữ” và ở đây hay bởi cái “hằn học” cũng là một lối đi để tạo nên chất văn của Trang Thụy, một cá tính không nhiều người viết có được.
11 truyện ngắn, gần 200 trang sách, số lượng chưa nhiều nhưng số câu chữ hàm chứa thông điệp lại rất đậm đặc. Giọng văn có lúc tưng tửng, trêu ngươi nhưng đằng sau đó, là những lần quay mặt đi để lau nước mắt. Bản thân Trang Thụy là phụ nữ, đã đèo bòng và đã đi qua những ngày co ro, buồn thảm; có lẽ vì thế mà chị trở nên nhạy cảm, thấu hiểu hơn…
Chị khóc cho nỗi thống khổ của những người đàn bà ở miền biên viễn, cả đời không đi ra khỏi cái bếp, thiếu thốn đủ thứ nhưng lại thừa những nỗi sợ và định kiến. Những câu chuyện, có típ không xa lạ gì, có típ nghe rất vô lý. Một thiếu nữ bị ép gả cho cậu bé 10 tuổi “ch…im cò thò lò chưa biết vần vò cho dài thuỗn ra…”; một người vợ không đẻ được thì bị cho “mượn” làm việc trả nợ như con trâu, cái cày; một A Lếnh trở thành kẻ “lừa tình” khi đón cô Xằn về làm vợ cho người bố sắp chết… nhưng sao qua con chữ của Trang Thụy, tôi thấy cuộc đời cay đắng quá.
Tôi tự hỏi: Liệu những chuyện này có thật vẫn đang diễn ra không? Những người phụ nữ sao quá dễ để bị lừa, dễ bị làm tổn thương như thế? Chỉ “vì sức hút của cặp áo vú phì độn. Vì những lời đưa đẩy của một thằng đĩ mồm” mà một người mẹ có thể “thẳng tay vứt bỏ chồng con như đổ đi một bao gạo mốc”? Liệu có phải chỉ cần “bỏ ra mười ngàn là có vợ mới”? Tại sao bị đối xử không khác gì trâu, ngựa Xì vẫn chờ đợi Thòi mà không dám về với một người tử tế như Lúi? “Đợi để làm gì, để những hạt yêu còn sót lại không bị chôn sống khi vẫn đang ngoi ngóc thở ư?” Có phải, họ đang phải trả giá cho sự cố chấp, ngu muội của mình không hay suy cho cùng, họ cũng chỉ là những người đàn bà bình thường, khao khát yêu và được yêu?
Mọi sự sắp đặt đều có ý đồ, Trang Thụy cũng đã xác nhận: “Tôi không hiềm khích gì với đàn ông nhưng tôi mượn tay họ để làm tổn thương phụ nữ, để phụ nữ hiểu ra bản chất của đàn ông và đàn bà, của tình yêu và số phận để từ đó, tự cắt đứt những sợi dây hãy còn trói buộc mình bởi thói đời và định kiến.”
Sau những câu chuyện “khổ lụy” như thế, vẫn có những câu văn gây cười để độc giả thả lỏng, nuôi hi vọng vào cuộc đời. Với “Úp sọt”, trong cái thế bị úp, chụp lại nảy ra tình yêu thuần khiết giữa Mến và Loát. Một thầy giáo lại để bị “úp sọt”, bị đưa vào thế đã rồi, nghe đã thấy vô lý thế mà nó lại xảy ra. Và ở đời, phàm bất cứ thứ gì, điều gì đều có thể xảy ra, “thầy giáo thì cũng là người”.
Một kết thúc có hậu cho Mến không có nghĩa tác giả cổ xúy cho việc chúng ta thả đời mình tự trôi theo trò đùa số phận. Nếu không tự gỡ rối và bảo vệ bản thân đến cùng thì kết cục sẽ như Mẻo ở “Mùa đông không có mưa”: “Em ngây thơ thật hay giả vờ. Em nhìn đi, nhìn kỹ vào. Mùa đông thì làm gì có mưa.” Phải rồi “Mẻo à? Nếu cuộc đời đơn giản như em vẫn mơ thì Đông ở phố đã mưa tầm mưa tã, bụi mịn có chỗ nào để bay. Em bớt ngây thơ cho cuộc đời còn nhờ.”
Cuối cùng, là một người phụ nữ, tôi cũng đã nhiều lần tự hỏi: “Sống bằng cảm xúc dù biết sẽ khổ, sao ta vẫn cố chấp?” Cảm ơn nhà văn Trang Thụy đã nói lên tiếng lòng tôi và những người đàn bà khác: “Có quá nhiều thứ tình cờ tìm đến trong cuộc đời mỗi người. Ở thời điểm đó, không điều gì có thể bất chấp hơn, đã lựa chọn thì làm gì có quyền ân hận mà cũng không nên ân hận.” Tôi đồng cảm với người con gái “nhớ nhà, nhớ cái bánh gói lá, nhớ bóng mẹ chập chờn trên bức vách, nhớ những mùa cỏ đắng dưới ráng chiều đỏ gạch…” nhưng “không biết lấy cớ gì để trở về” bởi “vẫn còn vật cản nào đó khiến bố chưa thể chấp nhận.” Phải chăng, “vì quá kỳ vọng nên khi tôi đổ vỡ, bố đã chẳng thể tha thứ cho ai, kể cả đó là câu chuyện của cuộc đời.” Và dù đã bất hiếu vì “đã yêu không màng tới điều gì, kể cả một lần mặc áo cưới”, “đã yêu không cần bất cứ thứ gì kể cả giấc ngủ của cha…” thì cô con gái ấy vẫn phải xin lỗi vì lần nữa, không thể đi theo sự sắp đặt của bố mẹ: “Nếu nghĩ cứ sắp đặt sẽ được như ý thì nhân gian này lấy đâu ra bội phản, ly tán, những van lơn uỷ mị và những nhà văn bước ra từ số phận” và “ai cũng có nơi để cắm rễ, giống người đàn ông một mực ở lại với dòng sông, cặm cụi ngồi vá những lỗ thủng trên lưới như đang vá lại đời mình.”
“Mùa cỏ đắng”, truyện ngắn đóng vai trò như một con “át chủ bài” của “Rét” đã kết thúc tập truyện bằng một nỗi buồn đẹp, đeo đẳng, nhiều trăn trở nhất: “Trong mỗi nóc nhà im ắng đều mang những câu chuyện cuộc đời, chỉ có khói biết và mang lên trời.” Có thật, chỉ “còn một đợt rét chót” này không hay sẽ còn nhiều “đợt rét” nữa mà nhà văn Trang Thụy vẫn đang ấp ủ, hẹn trở lại trong tập truyện thứ 2, chúng ta hãy cùng chờ đón.