Khi đến gần khu nghỉ dưỡng trên núi Tateshina - sau khúc cua cuối cùng trên đường, trước con dốc đột ngột mở ra khung cảnh đầu tiên về thị trấn, những con hàu bám đầy quanh mép hồ thành từng cụm trắng xám phía xa bên dưới - bạn sẽ thấy, phía bên phải là một tấm biển quảng cáo chào đón bạn đến với “ngôi nhà của sếu đầu bạc, quái vật hồ Loch Ness của chúng ta!” Bên cạnh những dòng chữ này là con chim được sơn màu ở giữa, mỏ hướng lên trời, đầu cánh vươn ra ngoài viền biển báo, một điểm nhấn đẹp mắt, chỉ trong thoáng chốc, khi tấm biển hiện ra, sẽ tạo ảo giác về một không gian ba chiều chuyển động, như thể con chim đang rời ranh giới phẳng lặng của tấm biển để đến với bầu trời thực sự không tô vẽ.
Minh họa Đặng Tiến |
*
Cho đến gần đây, người ta tin rằng hình ảnh mới nhất còn sót lại của bức Con sếu mùa đông là một tấm ván trượt thời Edo được cho là của Kano Tan’yu (1602-1674). Bức tranh, mực và màu sắc trên giấy, cho thấy con chim hướng về phía trước, đôi chân chôn trong tuyết. Tuyết - được lột tả một cách buồn tẻ trong những khoảng trống đơn điệu - bao quanh con sếu, lấp đầy hầu hết khung tranh. Đây là một bức tranh giản dị, chân phương, và vì lí do này mà nó gắn liền với tác phẩm màn ảnh sau này của Kano; ngoài bản thân con chim, màu sắc duy nhất là một mảng xanh nhỏ ở góc dưới bên trái, nơi tuyết đã tan, và bên phải con sếu, một cánh hoa anh đào đơn lẻ trôi nổi trên cái bóng xanh của nó. Cánh hoa gợi lên một trận tuyết mùa xuân bất ngờ. Đôi cánh xòe ra một phần, con chim ngẩng đầu lên và há chiếc mỏ đỏ như thể muốn hát hoặc kêu lên. Tư thế này quyết liệt và đầy ám gợi, song ý nghĩa thực sự của nó vẫn còn nhiều tranh cãi: nó được hiểu theo nhiều cách khác nhau như để chào mừng mùa xuân đến và than khóc khi mùa đông kết thúc.
*
Sự so sánh loài chim này với quái vật hồ Loch Ness trên tấm biển quảng cáo chắc chắn gây hiểu lầm cho khách du lịch bình dân, những người chỉ đến đây vào mùa đông để trượt tuyết hoặc mùa hè để thoát khỏi sự ẩm ướt ở vùng trũng. Những người này nếu có biết đến loài sếu thì từ câu chuyện dân gian phổ biến mô tả nguồn gốc của nó; sinh vật biết bay duy nhất mà họ hi vọng được nhìn thấy ở Tateshina là những chiếc tàu lượn nổi tiếng lượn vòng trên thị trấn với đôi cánh bằng vải của chúng. Ngay cả những người đến bằng xe buýt du lịch với mục đích rõ ràng là để ngắm nhìn loài chim, thì sự cường điệu của tấm biển quảng cáo này vẫn khó hiểu. Suy cho cùng, sếu đầu bạc không hẳn là một loài quái vật thời tiền sử.
Tuy vậy, theo cách riêng nào đó, nó có thể khó nắm bắt không kém “Quái vật hồ Loch Ness”: mặc dù Grus hiberna đã xuất hiện trong vô số bức tranh và văn học, và dù có nhiều người khẳng định đã nhìn thấy nó, nhưng cho đến nay loài chim này vẫn chưa bao giờ bị bắt hoặc chụp ảnh trực tiếp. Bạn sẽ không tìm thấy nó trong bất kì sở thú nào hoặc trưng bày sau lớp kính của bất kì bảo tàng lịch sử tự nhiên nào. Được chính thức liệt kê là loài có nguy cơ tuyệt chủng cao, một số nhà điểu học tin rằng nó đã tuyệt chủng. Và thậm chí có người cho rằng sếu đầu bạc chưa bao giờ tồn tại, rằng sự xuất hiện thường xuyên của nó trong các tác phẩm nghệ thuật của Nhật Bản chỉ mang tính biểu tượng như sự xuất hiện của kì lân hoặc quái vật có cánh trong các nền văn hóa khác.
Khẳng định của Tateshina về loài sếu này không phải là do những lần nhìn thấy thực tế, mà là do lời đồn chưa được kiểm chứng rằng câu chuyện dân gian này bắt nguồn từ nơi đây trước khi lan truyền khắp Nhật Bản. Một điều chắc chắn: thị trấn đã thành công trong việc quảng bá và khai thác loài chim này hơn bất kì đối thủ tiềm năng nào trong khu vực. Các nhà điểu học tận tụy bảo tồn loài sếu phàn nàn rằng việc thương mại hóa này chỉ gây tổn hại đến mục đích của họ, khuyến khích quan niệm loài chim bị đe dọa này là hư cấu và làm giảm nguy cơ đẩy chúng vào tình trạng nguy hiểm. Tuy nhiên, Tateshina vẫn kiên trì: mỗi ngày, xe buýt du lịch đều chạy qua biển quảng cáo và xuống thị trấn, chở những hành khách háo hức được nhìn thoáng qua loài vật huyền thoại này.
*
Nếu sếu mùa đông thực sự tồn tại, hầu hết các nhà khoa học tin rằng nó sẽ không được tìm thấy ở Tateshina, hay bất kì nơi nào trên đảo Honshu, nơi nông nghiệp phát triển đã dẫn đến mất cân bằng sinh thái nghiêm trọng, mà nó sẽ ở trên những hòn đảo không có người trên biển Nhật Bản. Không có người ở không hẳn là không bị động đến, vì những chiếc thuyền theo lịch trình thường xuyên đưa khách du lịch sinh thái đến các đảo để tìm kiếm sếu mùa đông và các loài động vật quý hiếm khác. Đây là những chuyến đi trong ngày; luật pháp Nhật Bản cấm công chúng cắm trại hoặc ở lại qua đêm. Ngoại lệ duy nhất là với Hiệp hội nghiên cứu điểu học Nhật Bản, nơi đã thành lập các trung tâm nghiên cứu thường trực trên một số đảo. Hầu hết các nhà nghiên cứu là người Nhật, nhưng trong số họ có một người Mỹ, nhà nghiên cứu điểu học Richard Bedrosian. Ông thông thạo tiếng Nhật và có vẻ coi các đồng nghiệp là người nhà của mình. Bedrosian ban đầu đến đây nhờ khoản tài trợ từ Hiệp hội Audubon quốc gia để thực hiện nghiên cứu so sánh về sếu đầu đỏ Mỹ (Grus Americana) và sếu đầu đỏ Nhật Bản (Grus japonensis). Trong khi ở đó, ông đã biết về cuộc tìm kiếm sếu đầu bạc mùa đông gây tranh cãi. Kể từ đó, ông đã đến đó hàng năm.
Bedrosian tin chắc rằng con chim sẽ được tìm thấy. “Không thiếu bằng chứng giai thoại,” ông nói. “Rất nhiều lần nhìn thấy. Sau đó là bằng chứng thứ cấp - ví dụ như phân và lông - mà chúng tôi cảm thấy chắc chắn có thể truy ra dấu vết con sếu. Chỉ là vấn đề thời gian trước khi chúng tôi bắt gặp một con chim hoặc một tổ chim.”
*
Tiếng kêu của sếu mùa đông là gì? Nó có giống với âm thanh lảnh lót của Grus americana không? Hay nó giống tiếng kêu của Grus japonensis, được cho là người anh em họ của nó, như một hợp âm bằng gỗ run rẩy, một câu hỏi ba nốt nhạc? Hay là một cái gì đó hoàn toàn khác? Thật lạ là, không có đề cập nào về nó trong văn học, ngoại trừ huyền thoại về nguồn gốc, nơi nó được gọi tên một cách đơn giản là “nỗi buồn”. Con sếu đã được vẽ, điêu khắc, mô tả rất chi tiết. Chúng ta có thể vẽ nó xuống đến chiếc lông vũ cuối cùng, nhưng chúng ta vẫn chưa nghe thấy tiếng kêu của nó.
*
Đối tượng chủ yếu của chuyến tham quan Con sếu mùa đông ở Tateshina là người Nhật, người cao tuổi và tầng lớp trung lưu; cụ thể hơn là những già năng động có hứng thú với lịch sử và truyền thuyết Nhật Bản. Khách du lịch được đưa đón bằng xe buýt sang trọng có cửa sổ chống tia UV màu tối, ghế massage rung và hướng dẫn viên du lịch xinh đẹp, đeo găng tay trắng, đội mũ ba cánh và mặc đồng phục có cầu vai thanh nhã khiến họ trông giống như các sĩ quan hạm đội Liên Minh Thiên Hà trong phim hoạt hình. (Ngược lại, các tour du lịch giá rẻ dành cho du khách trẻ lại không có gì đặc biệt, thường là những chuyến xe buýt đêm chật cứng đến Tokyo Disneyland, trường quay vũ trụ của Nhật hoặc một trong những ngôi làng châu Âu được tái hiện tỉ mỉ - cùng với những người nước ngoài nhập cảnh trong trang phục thời kì đó - có thể được tìm thấy rải rác ở những địa điểm không ngờ tới trên khắp vùng nông thôn Nhật Bản.)
Chuyến tham quan, có tên là “Chuyến đi bộ ngắm sếu mùa đông”, là một phần của gói du lịch nhiều lựa chọn, tất cả đều được trình bày hấp dẫn trong các tờ rơi minh họa bằng ảnh. Ngoài việc đến thăm Tateshina, du khách có thể hứng nước suối chữa lành chảy nhỏ giọt bằng chai nhựa từ một khe nứt phủ đầy rêu trên vách đá ven đường, nguồn nước được ban phước bởi bức tượng nữ thần Kannon cách đó một trăm mét; tham quan cung điện Công chúa Himiko cổ đại được xây dựng lại; di chuyển bằng áo mưa trùm đầu qua các hang động nhỏ giọt của Yamaguchi, nơi những sinh vật bạch tạng mù màu bơi trong các dòng suối dưới nước; hoặc cùng nhau chụp ảnh tại Đền thiêng Seikenji, được cho là bối cảnh của vụ tự thiêu của nhà sư - học giả Nenjin (mặc dù có tên gọi hoành tráng, nhưng thực ra chỉ là một bàn thờ đá vỡ được bao quanh bởi các máy bán hàng tự động và hàng rào rỉ sét).
Khi đến Tateshina, những người cao tuổi từng người một xuống xe. Hướng dẫn viên du lịch sẽ bước xuống xe buýt và đợi trên đường nhựa, mỉm cười, một lá cờ hiệu màu sắc trên cây gậy giơ cao để không ai bị lạc hoặc đi nhầm theo một những đoàn khác. Nhưng đây không phải là những người già yếu ngốc nghếch. Phần lớn họ đều tỉnh táo và có mục đích, máy ảnh và ống nhòm luôn sẵn sàng. Họ đi theo hướng dẫn viên du lịch trong chiếc mũ mềm và đôi giày đi bộ đường dài, túi da chắc chắn, có khóa kéo phồng ra từ eo, giống như một chủng tộc đặc biệt đã thích nghi về mặt tiến hóa với nhiệm vụ rình rập sếu mùa đông.
Hướng dẫn viên dẫn họ qua bãi đậu xe, qua các cửa hàng lưu niệm và quầy bán bạch tuộc tẩm bột chiên - trên đường quay lại, họ có đúng mười phút để mua hàng - và rồi hạ thấp cờ hiệu để nó không đập vào cành cây, dẫn đường vào mê cung những con đường mòn chằng chịt của khu rừng.
*
Nữ hoàng Mặt trăng có mọi thứ nàng có thể muốn trong vương quốc băng tuyết của mình - mọi thứ ngoại trừ cá. Nàng nhìn xuống Người đàn ông khi chàng bắt và nấu chúng, mùi cá nướng với muối và dầu đậu bốc lên vương quốc của nàng, khiến nàng ghen tị. Vì vậy, nàng đã yêu cầu Thần Sông cho nàng một con cá cho vùng nước đóng băng của mình, nhưng Thần từ chối. Tức giận, Nữ hoàng đợi cho đến khi trăng tròn, khi gió thổi, mặt trăng trôi thành một vòng tròn và ánh trăng mở ra con đường rộng lớn đến thế giới, và sau đó trườn xuống bờ sông. Khi nàng bắt được một con cá hồi trong bẫy của mình, Thần Sông, vẫn bí mật theo dõi, đã nổi dậy bằng một cú bắn nước mạnh mẽ và trừng phạt nàng bằng cách biến nàng thành một con sếu. Làn da trắng muốt của nàng mọc thành lông vũ, những chiếc nhẫn trên ngón tay nàng trở thành đầu cánh màu bạc, và vương miện của nàng biến thành một mào bạc.
“Giờ thì ngươi có thể thỏa thích ăn cá hồi rồi đấy!” Thần nói.
Nữ hoàng cầu xin sự tha thứ của Thần, vươn chiếc cổ dài một cách đáng thương và vỗ đôi cánh tuyệt đẹp cho đến khi Thần nhượng bộ, nói: “Ngươi có thể trở lại hình dạng thật của mình - nhưng chỉ khi ánh sáng của vương quốc ngươi tràn ngập bầu trời; và ngươi có thể trở về nhà - nhưng chỉ một đêm mỗi tháng, khi trăng tròn.” Vào ban ngày, nàng bị kết án phải sống như một con sếu, ở lại gần dòng sông và ăn các sinh vật của nó để nàng mãi mãi nhớ về hành vi sai trái của mình. (Sự thật là, Thần Sông đã yêu Nữ hoàng và muốn trói buộc nàng bên mình.)
*
Và thế là Nữ hoàng lang thang khắp các con sông và suối thế gian. Một buổi sáng, khi đang đuổi theo con ếch qua đám lau sậy cao, nàng bị mắc bẫy. Khi người thợ bẫy đến kiểm tra, chàng ngạc nhiên khi một con chim lạ đập đôi cánh dài và tuyệt vọng cắn vào chân bị trói cho tới khi mỏ đỏ như máu. (Đây là lý do sếu mùa đông có mỏ đỏ.) Người thợ bẫy trải qua một cảm giác kì lạ: phần thương hại, phần hân hoan khi thấy vẻ đẹp bị chính bàn tay khéo léo của mình giam giữ ở đó. Chàng không gọi tên hay lí giải được cảm xúc khó tả này và đã thả con chim. Nó nhảy đi, vụng về trong sự tự do bất ngờ của mình, rồi dường như nhớ ra điều gì, nó bay lên không trung. Đặt tay ngang tầm mắt, người thợ bẫy đứng đó ngắm nhìn đường bay của nó, từ từ quay trở lại khi con chim biến mất trên bầu trời.
Nữ hoàng cố gắng rời khỏi nơi này, nàng sợ những cái bẫy của loài người, những thứ cuộn tròn không ngủ chờ đợi trong bóng tối, kiên nhẫn như những con rắn. Nhưng nàng lại trở về, từ trên cao nhìn thấy người đàn ông đang thu lượm chiến lợi phẩm hàng ngày và mang về túp lều nơi chàng sống một mình ở bìa rừng. Và nàng nhận thấy không thể rời xa chàng, như thể nàng vẫn đang bị mắc bẫy và đập đôi cánh của mình xuống đất.
Vì vậy, khi màn đêm buông xuống và ánh trăng đưa nàng trở lại hình dạng thật của mình, nàng tiến đến túp lều của chàng với lòng biết ơn vì đã được giải thoát. Túp lều trống rỗng; người đàn ông vẫn đang ở ngoài kia bẫy trong rừng. Nữ hoàng bước vào đợi chàng. Khi trở về, chàng đứng ngạc nhiên nhìn nàng ở ngưỡng cửa, con mồi ngọ nguậy trong chiếc túi lủng lẳng ở tay chàng.
Nàng nói với chàng rằng nàng bị lạc và đói. Khi người thợ săn hoàn hồn, chàng mời nàng cùng ăn tối. Họ ăn gà lôi, hạt dẻ và khoai mỡ, những hương vị mới lạ mà nàng thích thú. Nàng ăn ngấu nghiến, lờ đi những câu hỏi của chàng và tạm thời quên mất lí do đến đây. Cuối cùng, chàng từ bỏ việc cố gắng tìm hiểu cô nương lạ mặt, nhợt nhạt này đã đến túp lều của mình ra sao. Chàng bảo nàng có thể ở lại qua đêm. Khi chàng thức dậy lúc rạng sáng, nàng đã đi mất. Đêm hôm sau, nàng lại đến; và đêm tiếp theo nữa. Nhưng mỗi sáng chàng đều thức dậy một mình. Người thợ săn đã yêu Nữ hoàng và cầu xin nàng sống cùng như một người vợ trong một đêm. Nàng đồng ý, nhưng bắt chàng phải hứa hai điều: thứ nhất, chàng sẽ không bao giờ được hỏi nàng đi đâu vào ban ngày hoặc khi trăng tròn; và thứ hai, không được theo dõi nàng.
*
Nữ hoàng và người thợ săn sống hạnh phúc bên nhau nhiều năm cho đến một ngày, người thợ săn phát hiện ra một con chim quen thuộc đang uống nước ở một con suối. Chàng ẩn sau một cái cây và quan sát nó, nhớ lại con chim mà anh ta đã từng thả tự do, và nhớ lại cảm xúc khó tả của mình khi thấy sinh vật bị mắc bẫy đập cánh và cái mỏ đẫm máu của nó. Và rồi chàng nghĩ về vợ. Không phải như bây giờ, mà là khi chàng mở cửa túp lều và phát hiện ra nàng đang ngồi bên bàn của chàng, hơi run rẩy, nhìn chàng bằng đôi mắt kinh hãi và cười như nhăn mặt. Nàng khiến chàng nhớ đến con vật bị thương đã mất hết lý trí và dường như sẵn sàng lao thẳng vào hàm răng của kẻ truy đuổi.
Người thợ săn đi theo con sếu xuống suối, lặng lẽ di chuyển từ cây này sang cây khác, và khi màn đêm buông xuống và ánh sáng tắt hẳn, chàng đã quá đỗi ngạc nhiên khi thấy con chim đi dọc theo con đường đến túp lều của mình. Nó mở chốt bằng mỏ và bước qua ngưỡng cửa. Nhưng khi người thợ săn vào trong, chàng chỉ thấy vợ mình, đang đợi chàng như mọi khi.
(Tất cả những điều này đã được Thần Sông lên kế hoạch. Ghen tị với tình yêu của người thợ bẫy và Nữ hoàng Mặt trăng, ông đã dụ nàng bằng những con cá hồi bơi nhanh đến một điểm trên dòng suối gần nơi người đàn ông đang đặt bẫy.)
Người đàn ông không nói gì với vợ mình, nhưng chàng không thoát khỏi một sự nghi ngờ kì lạ. Cuối cùng, chàng không thể cưỡng lại: trước bình minh, khi người vợ thức dậy như thường lệ và rời khỏi túp lều, chàng đi theo nàng vào rừng, lén lút như thể đang săn một con thú hoang. Nhưng Nữ hoàng cảm nhận được chàng phía sau và quay lại, khiến chàng hoảng hốt ngay khi bình minh ló rạng. Nàng mở miệng định nói, có lẽ để nguyền rủa vì sự phản bội này, có lẽ để tha thứ cho chàng vì điều đó, có lẽ để nói lời tạm biệt. Nhưng trước khi kịp nói, đôi môi đỏ của nàng đã dài ra thành một cái mỏ và giọng nói của nàng trở thành tiếng gọi buồn của một chú chim. Sau đó, nàng nhảy ra khỏi tầm với và bay vào bầu trời đang sáng dần.
Nàng không trở về vào đêm đó, hoặc đêm hôm sau. Và dù người thợ săn đã tìm kiếm nàng vào ban ngày và chờ đợi nàng trong túp lều của mình vào ban đêm nhiều tuần, rồi nhiều tháng, nhiều năm, nàng vẫn không trở về.
*
Bedrosian đóng gói đồ đạc của mình. Đợt băng tan đầu tiên sẽ sớm đến. Ông ấy nói rằng sẽ quay lại vào năm sau. Ông không coi chuyến đi này là một thất bại. Ông cảm thấy - mặc dù điều đó là phi lí - rằng mỗi lần không tìm thấy con chim, nó lại đưa ông đến gần hơn một hi vọng nào đó, như thể mỗi lần tìm kiếm sẽ bôi đen các phần trên bản đồ cho đến cuối cùng, chỉ còn lại một ô vuông sáng và ở giữa ô vuông đó là một con sếu mùa đông mào bạc đang chờ đợi.
*
Cô hướng dẫn viên xinh đẹp dẫn những người cao tuổi đi sâu hơn vào khu rừng, chiếc cúc áo bằng đồng của cô lấp lánh khi chuyển động trong bóng cây râm mát. Đôi giày cao gót khá nguy hiểm trên con đường này, với những ổ gà nhấp nhô và rễ cây uốn lượn; và chúng cũng khiến mắt cá chân của cô đau nhức. Cô cố gắng không tỏ ra đang phải bước cẩn trọng. Phía sau cô, những người cao tuổi đang diễu hành, vững vàng, không biết mệt mỏi. Cô biết ơn vì sự yên bình và tĩnh lặng sau tất cả những cuộc nói chuyện trên xe buýt. Đoàn đi hôm nay luôn vui vẻ và hòa đồng; họ đối xử với cô như một đứa cháu gái. Trên đường lái xe từ điểm này sang điểm khác, một số phụ nữ sẽ mời cô ăn cơm hộp cùng họ; một số đàn ông sẽ tán tỉnh bông đùa. Cô thích họ, thích công việc của mình, nhưng cũng cần được nghỉ ngơi. Tất nhiên, cô không thể im lặng mãi được: tại những điểm được chỉ định trước dọc đường mòn, cô phải dừng lại, tỏ ra thì thầm bí ẩn, như thể con sếu mùa đông có thể đang đợi ở khúc cua tiếp theo hoặc đằng sau lùm cây tạp sắc đó, chỉ ra những đặc điểm thú vị của cảnh quan. Tất cả đều được tính toán thời gian và lên kịch bản chính xác. Sau cùng, dịch vụ du lịch biết rằng dẫn mọi người đi bộ đường dài qua rừng mà không có hi vọng thực sự nào về việc nhìn thấy con mồi của họ, họ sẽ thất vọng; vì vậy, nó được biến thành một chuyến đi bộ thiên nhiên, mang lại giá trị riêng của nó. Tuy nhiên, loài chim không bị lãng quên: thi thoảng hướng dẫn viên kể lại một số phần của câu chuyện thần thoại, như khi họ qua cầu đi bộ trên một con sông nổi tiếng địa phương về dồi dào cá hồi, giống nơi Thần Sông trong câu chuyện nổi giận và biến Nữ hoàng Mặt trăng thành một con sếu. Cô thấy mình trở nên năng lượng khi kể lại câu chuyện, thậm chí như bị cuốn theo nó; và khi nhìn mọi người, cô thấy rằng họ cũng đang thích thú khi nghe lại câu chuyện quen thuộc. Sau đó, họ lại tiếp tục đi xuống con đường mòn. Đôi khi, những người già bỗng dưng nán lại, đột nhiên bị mê hoặc như trẻ con bởi thứ bình thường nhất: một con nhện treo lơ lửng giữa những thân tre; một tảng đá lấp lánh dưới ánh nắng; một con bướm có màu sắc tươi tắn của một chiếc lá mùa thu. Tuy nhiên, họ vẫn di chuyển theo hướng dẫn viên. Họ có một lịch trình cố định: sau chuyến đi bộ tìm sếu mùa đông, phải lái xe hai giờ đến Ryuganji, nơi con rồng được vẽ trên trần uốn lượn như đang di chuyển - những sóng vảy đỏ vô cùng tinh tế nếu nhìn bằng con mắt của đức tin trong thế nằm, đầu hướng về phía nam, trên mái đá của ngôi đền.
Nguyễn Thị Thùy Linh
Dịch từ tiếng Anh