Tôi thường tự kể về công việc của mình, để tăng phần thú vị - chuyện điệp viên, chuyện lấy cắp thông tin, chuyện chiến tranh. Tôi thêm thắt chút lâm li để biến những vụ hồi hương thành “Giải cứu binh nhì Ryan”, thành “Johnny cầm súng”. Hồi hương - nghe mới kêu làm sao, kịch tính biết mấy! Tôi hình dung những thân hình đầy thương tích trong các ngôi lều bẩn thỉu, y tá thay băng gạc nâu, dính máu, cúi xuống giường nói với người bị thương, “Có tin tức rồi - bạn sắp được về nhà.” Nhưng tôi chỉ làm việc tại Lãnh sự Đại sứ quán Mỹ đặt ở Paris. Những người Mỹ được tôi giúp hồi hương chủ yếu bị gãy chân ở phố Pigalle hay gặp tai nạn xe thuê ở Normandy. Những người không gặp phép lạ ở Lourdes thường rời nước Pháp trong tình trạng tồi tệ hơn lúc họ đến.
![]() |
Minh họa Phạm Hà Hải |
Đôi khi, tôi phải gửi một thi thể về nước. Tôi nhận thấy cái chết ở nước ngoài thường xảy ra trong các tour du lịch trọn gói. Có vẻ như, trái với suy nghĩ phổ biến, đi theo nhóm không đảm bảo cho bạn, mà thực tế lại khiến bạn yếu đuối và dễ bị thương tổn. Cả nhóm người sẽ có một mắt xích yếu nhất, và luôn có khả năng bạn trở thành mắt xích yếu đó.
Eva Glasper là ví dụ điển hình. Bà qua đời vào đêm qua, bất tỉnh sau khi ăn tối ở Right Bank (bờ bắc sông Seine, Paris). Bà đến Paris dự hội nghị kĩ thuật, không phải nghỉ mát, nhưng ý nghĩa vẫn tương tự: trong ba ngày, bà là thành viên của một nhóm, theo lịch trình của nhóm, rồi bà chết ở vùng đất xa lạ, cô đơn giữa những người xa lạ.
Tôi nói chuyện với Lisa - con gái của bà ấy – hai lần rồi. Lisa muốn quá trình hồi hương ngay lập tức, đưa thi thể mẹ về Boston càng sớm càng tốt. Tôi bèn bỏ bữa trưa để sắp xếp với nhà tang lễ, với sân bay de Gaulle và Logan, rồi, khi tôi gọi lại Lisa để thông báo rằng mẹ cô sẽ được lên máy bay tới Boston chuyến đầu sáng mai, tôi đã mong đợi lòng biết ơn nhờ công việc nhanh lẹ hiệu quả của mình. Tuy nhiên, cô ấy lại thất vọng. Cô đã mong quá trình hồi hương diễn ra ngay hôm đó.
“Tôi không muốn mẹ nằm cô độc một đêm nữa trong nhà xác.” Cô nói. “Xa quê hương như thế.”
“Tôi biết là khó chấp nhận.” Tôi đáp.
“Anh có thể giới thiệu ai đó trông nom mẹ tôi không?”
Tôi biết cô muốn gì, nhưng vẫn giả vờ không hiểu. Tôi hỏi cô muốn gọi linh mục không.
“Không phải linh mục.” Cô nói. “Cần người ở lại bên mẹ tôi suốt đêm, một người tốt bụng, kiểu như, có thể giải thích cho mẹ hiểu điều gì đã xảy ra.”
“Đúng vậy.” Tôi đáp.
“Tôi không rồ đâu.” Lisa nói, cho hay rằng những giờ sau chết rất quan trọng: thân xác không nên bị để lại một mình mà không chăm nom. Nếu người chết ở một mình quá lâu trước khi chôn cất, linh hồn sẽ lo âu, bất ổn và lang thang mãi mãi. Cô sử dụng cụm từ “xâm phạm hồn ma.”
“Mẹ tôi không đau ốm.” Cô nói tiếp. “Bà ấy không chuẩn bị cho điều này xảy ra, nên linh hồn bà có lẽ đang rất bối rối lúc này. Bối rối và giận dữ. Đó là kết hợp tồi tệ nhất. Ấy là cách thức cho xâm phạm hồn ma.”
Tôi không thấy trong giọng nói cô có chút ngần ngại nào, khi cô thừa nhận tin vào ma quỷ.
“Không để mẹ tôi hóa ngạ quỷ được.” Lisa nói. Sau đó cô thêm rằng tôi có vẻ tử tế, rằng tôi có thể ngồi cạnh thi thể của mẹ cô. Cô còn nói sẽ trả tiền công cho tôi. Tôi không muốn cạnh xác chết cả đêm, nhưng tôi tò mò muốn biết cô sẽ trả bao nhiêu tiền, nên tôi giả vờ suy nghĩ. Tôi để im lặng bao trùm một chút.
“Anh White? Anh còn đó không?”
Tôi tìm kiếm trên Google thông tin về Eva Glasper trong khi con gái bà đang nói chuyện. Tôi trông thấy ảnh hộ chiếu của bà trong hồ sơ, nhưng ảnh hộ chiếu không bao giờ giống người ngoài đời thực. Tôi muốn xem những tấm ảnh đời thực. Tôi muốn xem liệu bà Eva Glasper có khả năng thành ma quỷ hay không, liệu bà có bị đối xử bất công và có thể cảm thấy bị lừa dối, hợp lí với “lang thang mãi mãi”, trong nỗi tức giận và đòi hỏi của bà ấy. Nếu tôi tin phim ảnh về hồn ma (khi nhắc về chủ đề này, phim ảnh là tất cả những gì tôi dựa vào được), điểm chung là ma muốn được bù đắp. Theo các bài đăng Facebook của bà Eva Glasper, bà có cuộc sống hạnh phúc, không thiếu thốn gì. Chẳng lời than phiền, chỉ có lòng biết ơn với gia đình và đồng nghiệp tại M.I.T, các cảm xúc với chương trình tivi yêu thích của bà “For All Mankind” dù hầu hết thông tin khoa học trong đó đều “sai lệch”. Nhắc đến tiểu thuyết, một số người chỉ thích xem những truyện mà họ biết đâu là đúng đâu là sai. Mẹ tôi cũng kiểu vậy. Là y tá, bà thích chỉ ra sai sót trong “E.R”, nhưng đó vẫn là chương trình yêu thích của bà. Bà nói biên kịch đã hiểu đúng vài điều về phòng cấp cứu nên có thể bỏ qua các sai sót khác.
Tôi bảo Lisa là tôi sẽ tìm người ngồi canh thi thể mẹ cô.
Vài phút sau khi tôi cúp máy, Marianne đến bàn làm việc để trò chuyện. Tôi tự hỏi liệu cô ấy có cảm thấy bắt buộc phải làm thế sau khi chúng tôi đã chia tay. Có lẽ cô ta cho rằng mình đang tử tế. Cô nhắc tôi hôm nay là sinh nhật của cha tôi.
“Em không cần làm thế này nữa.” Tôi bảo. “Nhắc nhở anh mọi thứ.”
“Anh nói chuyện với bố chưa?”
“Giờ này ở Chicago còn sớm.”
“Khi nào anh gọi, nhớ nói là em gửi lời chào. Và chúc mừng sinh nhật bác.”
Tôi chưa kể với cha về chuyện chúng tôi chia tay. Không phải điều đó sẽ làm ông buồn hay lo âu; chúng tôi chỉ là không nói những chuyện như thế. Thực lòng mà nói, cha tôi và tôi chủ yếu nói về phim ảnh.
“Anh sao rồi?” Cô hỏi.
Tôi kể về cuộc điện thoại với Lisa Glasper, về yêu cầu muốn tôi ngồi ở nhà xác cho có bạn, để bà ấy không hóa thành ma quỷ.
“Chị ấy định trả bao nhiêu?”
“Năm trăm đô la.” Tôi đáp.
“Em không biết thế có phải keo kiệt không. Năm trăm đô la ư? Đề ngồi cạnh thi thể của mẹ chị ấy suốt đêm á?”
“Và dẫn dắt linh hồn bà ấy đến nơi tốt đẹp.” Tôi nói.
“Anh định làm không?”
Tất nhiên tôi không thể nhận tiền, Marianne và tôi đều biết thế, nhưng vẫn thú vị khi cân nhắc, và suy ngẫm về ý nghĩa của nó.
“Em tự hỏi chị ấy nghe thấy gì trong giọng nói của anh, mà nghĩ là anh phù hợp với công việc đó.” Marianne nói thêm. “Có khi chị ta nghĩ anh là kẻ quái dị.”
“Anh kể với chị ấy rằng mẹ anh là người Boston.” Tôi đáp. “Anh nghĩ như thế tạo gắn kết.”
“Nhưng mẹ anh đâu phải người Boston.” Marianne nói.
“Khi đối diện với các gia đình đang đau buồn, mình phải xây dựng niềm tin.” Tôi đáp. “Mối gắn kết. Sự chính xác của mối gắn kết ấy không quan trọng.”
“Anh xây dựng niềm tin bằng cách nói dối họ à?”
“Đâu phải anh đang hẹn hò với cô ấy.” Tôi nói. Tôi theo dõi phản ứng của Marianne khi nghe từ “hẹn hò”. Có gì đó làm cô ta khó chịu, nhưng không phải với ý tưởng rằng tôi có thể (và có lẽ sẽ) hẹn hò với phụ nữ khác trong tương lai.
“Em không tin nổi anh lại nói với người lạ về mẹ anh.” Cô ta nói.
“Anh không nói. Em tự nói đấy chứ - mẹ anh thực ra có phải quê ở Boston đâu.”
“Anh biết ý của tôi là gì. Anh chưa bao giờ nói với tôi về mẹ của anh.”
Thế đấy. Marianne ghen, nhưng không phải kiểu lãng mạn. Cô ta luôn muốn tôi nói nhiều hơn, mở lòng hơn. Hai năm qua, cô ta cố đào sâu gốc rễ nỗi đau thời thơ ấu của tôi (cái chết của mẹ khi tôi 10 tuổi), để hiểu chuyện đấy đã tạo hình thế giới quan của tôi ra sao, và tôi đã phản kháng can trường, đảm bảo rằng thế giới quan của tôi không gắn với quá khứ.
“Em muốn anh kể về mẹ anh không?” Tôi hỏi. Giờ thì rõ là chúng tôi sẽ không sống đến già cùng nhau nữa, nên cũng không phải quá khủng khiếp nếu tiết lộ thêm cho cô ta về bản thân tôi.
“Tất nhiên!” Marianne nói. “Mẹ anh như thế nào?”
“Mẹ tin vào ma quỷ. Mẹ của anh í. Giống như Lisa Glasper.”
“Thật à?”
Câu hỏi “Thật à?” của Marianne làm tôi đâm ra nghi ngờ bản thân mình. Đó là vấn đề khi nhắc về người đã khuất. Ngay cả khi bạn khá chắc chắn rằng mình đang nói sự thật, bạn không thể đảm bảo tuyệt đối.
Tôi không biết liệu mẹ tôi có thực sự tin vào ma quỷ hay không. Mẹ nói nghiêm túc, hay mẹ chỉ đùa. Những gì tôi biết chắc chắn là hồi bé tôi từng sợ mọi thứ - bóng tối, cơn gió lốc, viên đá rơi. Mẹ đã cho tôi xem phim kinh dị và phim ma quá sớm, để cho tôi bớt sợ hãi. Chúng tôi dành rất nhiều chủ nhật thảo luận về những gì sẽ làm nếu hóa ra ma quỷ, chúng tôi sẽ trêu chọc ai. Mẹ nói với tôi rằng, nếu mẹ mất đi, mẹ sẽ quay về tìm tôi, nhưng không phải theo cách đáng sợ, chỉ để chơi, để xem phim ma cùng tôi vào ngày chủ nhật và giải thích những điều phim đã nói đúng và sai về hậu cảnh. Nghe có vẻ vui, ý tưởng về việc xem phim ma cùng một hồn ma. Nhưng sau đó mẹ bị ốm, và ngoài việc sợ mẹ sẽ chết, còn sợ mẹ chết rồi vẫn còn về tìm tôi. Những tuần cuối đời mẹ, tôi đã muốn hỏi mẹ có quay lại tìm tôi không sau khi qua đời, nhưng rồi không hỏi vì sợ làm tổn thương cảm xúc của mẹ. Có đứa trẻ 10 tuổi nào không muốn mẹ mình quay lại từ cõi chết để xem phim cùng vào các ngày chủ nhật?
Cha gọi điện thoại cho tôi ở chỗ làm khoảng 4 giờ chiều. Khi đó mới 9 giờ sáng ở Chicago, nhưng tôi biết ông đã thức dậy từ lâu rồi, dò xét tin tức quốc gia và địa phương để tìm những điều khiến ông giận dữ.
“Con thấy những con ngựa chưa?” Cha tôi hỏi.
Hai con ngựa đã chết trên một phim trường ở California. Cha không thể chịu nổi việc động vật bị sử dụng cho mục đích giải trí.
“Chúc mừng sinh nhật cha!”
“Phải có hậu quả mới được.” Cha tôi nói về những con ngựa.
Tôi nghĩ về căn hộ mà cha ở, với những tấm rèm quá dày và quá dài, tất cả phần vải thừa dưới đáy cuộn lại trên sàn như đồ bẩn chưa giặt. Khi còn bé, tôi từng mơ tưởng đến việc cắt bỏ phéng đi.
“Cha có kế hoạch đặc biệt gì cho hôm nay chưa?”
“Định nghĩa “đặc biệt” đi.” Cha tôi bảo.
Tôi nói “Ăn trưa ạ? Hay chơi bowling? Uống bia với bạn?”
“Barra sẽ sang.” Ông nói. “Bọn bố sẽ xem “The Hustler” tối nay. Có thể sẽ uống bia.”
Cha có bạn cùng xem phim mỗi tuần một lần. Cũng là người góa vợ, không quá thông minh. Lần đầu tôi gặp chú Barra, lúc còn là thiếu niên, tôi xấu hổ vì cha mình lại kết bạn với người ngốc nghếch như thế. Nhưng rồi chú Barra mời sang nhà ăn tối, khi nhìn thấy căn hộ của chú ấy sạch sẽ và sáng sủa thế nào, gặp con trai chú và được giới thiệu về bộ sưu tập DVD, tôi bắt đầu xấu hổ về chúng tôi, về căn hộ của chúng tôi với những tấm rèm, lớp cáu bẩn trên mặt bàn nhựa, kệ băng VHS xấu xí.
“Marianne gửi lời chào cha”. Tôi nói.
“Ừ.” Cha đáp.
Tôi băn khoăn chẳng biết có nên kể rằng chúng tôi đã chia tay, hay chuyện về bà Eva Glasper, nhưng cha tôi muốn nói về những con ngựa chết ở phim trường Hollywood.
“Ta không tin là chúng chết vì ngộ độc thức ăn.” Ông nói. “Chắc có đứa đánh bả.”
Một thư kí của khối nghiệp vụ đến bàn làm việc đưa cho tôi phong thư bọc nhựa.
“Có người gửi thư cho anh ở quầy lễ tân.” Cô nói, và tôi rất vui khi cha tôi đang nghe điện thoại lúc cô ấy nói như vậy. Cha tôi có lẽ thích nghe câu đó - có khi ông tưởng tượng mình đang tham gia âm mưu quốc tế đáng hào hứng nào đó chỉ nhờ nghe được câu trên. “Một người đưa thư gửi cho anh cái này ở bàn lễ tân.” Cha yêu thích phim điệp viên. Tôi nghĩ rằng ông ấy (như tôi đã từng) vẫn mơ mộng một ngày nào đó, hoặc thực sự tin rằng công việc của tôi ở Đại sứ quán là nơi ẩn giấu cho nhiệm vụ nào đó cao cả hơn.
“Con phải đi à?” Cha nói trên điện thoại. “Nghe có vẻ quan trọng.”
Tôi không biết cha tưởng tượng gì về cuộc sống của tôi. Ông có nghĩ công việc của tôi nguy hiểm không? Ông có nghĩ rằng tôi là chàng trai dũng cảm, chiến đấu chống ác quỷ trong bóng tối không?
“Không có gì đâu ạ.” Tôi đáp, trước khi quyết định cho ông một chút cảm giác hồi hộp, chơi theo cái mơ tưởng của ông. Dù sao cũng là sinh nhật ông. “Con chỉ giúp người ta ra khỏi đất nước thôi.”
“Một nhân vật quan trọng hả?”
“Cha biết là con không được tiết lộ thông tin mà.”
Phong bì bọc nhựa chứa các vật dụng cá nhân của bà Eva Glasper, được tìm thấy tại nhà hàng nơi trái tim bà ngừng đập. Vali của bà ở khách sạn được gửi thẳng tới sân bay de Gaulle để vận chuyển vào hôm sau, những gì bà mang theo người khi đến bệnh viện bây giờ đang ở nhà xác, nhưng nhà hàng không biết phải gửi về đâu cuốn sổ mỏng mà bà để cạnh đĩa, cùng chiếc bút mà bà được tặng từ Hội thảo Hàng không Paris. Tôi lật qua cuốn sổ tay. Bà ấy đã ghi chép rất nhiều, vẽ nhiều biểu đồ khó hiểu, phác thảo nhanh một số bản vẽ kĩ thuật. Cuốn sổ tay này là kiểu vật phẩm mà người phụ trách đạo cụ sẽ ao ước dùng trong phim về gián điệp công nghệ, cho phân cảnh lướt qua về nhà khoa học điên rồ (nhà khoa học miệt mài trong đêm tối, bao quanh là các tờ ghi chú và trang sổ tay mở rộng) hay là đưa vào trung tâm cốt truyện (cuốn sổ tay tính toán ra lời giải đáp cho biến đổi khí hậu toàn cầu, chìa khóa giữ sự sống nhân loại). Tôi luôn tò mò về người tạo ra những thứ như thế, những cuốn sổ tay điên rồ trên phim – một nhân vật Hollywood nổi tiếng, mỗi năm viết đầy ba tới bốn cuốn sổ với các phương trình, bản vẽ và bản đồ, và liệu công việc của họ có dựa trên sự thật khoa học không, hay chỉ là làm màu. Tôi biết cuốn sổ tay của bà Eva Glasper là thật, nó chứa đựng khoa học thật sự, nhưng nhìn vẫn giả với tôi.
“Thôi con làm việc đi nhé.” Cha tôi nói, và ông cúp máy.
Thi thể của bà Eva Glasper được đặt ở Bờ trái sông Seine. Tôi bắt xe buýt, và khi qua sông Seine, não tôi bị lỗi trong một giây. Thay vì ghi nhận Tháp Eiffel phía trước, não chèn hình ảnh Chicago, tòa nhà Whirlpool. Điều này từng xảy ra với tôi trước kia khi đi xe buýt qua các dòng sông. Việc đi bộ qua các cây cầu không bao giờ làm trí não bị nhầm lẫn, nhưng ở tốc độ của xe buýt khiến não bộ tôi chạm tới hình ảnh cũ, cho tôi quyền truy cập tạm thời vào phiên bản chưa được cập nhật của bản thân tôi. Phiên bản trước của tôi từng đi xe buýt LaSalle hàng tuần, để gặp bác sĩ chuyên khoa dị ứng ở trung tâm thành phố. Sau cây cầu là tòa nhà Whirlpool, và kể từ đó, bộ não thằn lằn của tôi cứ mong đợi và chuẩn bị cho mắt tôi hình ảnh phản chiếu cũ khi tôi đi xe buýt qua một cây cầu. Điều tương tự từng diễn ra ở những địa điểm làm việc cũ, tại Đại sứ quán ở Cairo và Lãnh sự quán tại Sevilla. Tòa nhà Whirlpool qua mỗi dòng sông. Chicago trên sông Nile, Chicago trên sông Guadalquivir.
Nhà xác Paris xưa kia từng là nơi ai cũng tới. Tôi từng đọc được, vào thế kỉ 19, bạn chỉ cần vào đó để xem ai bị đâm chết vào đêm hôm trước, ai nhảy sông tự tử. Người ta đến đó hàng ngày để giải trí. Hàng ngàn người. Tôi đoán một số người tới trong sợ hãi, vì chồng họ chưa về nhà, vì con cái của họ mất tích, nhưng phần lớn người Paris tới đó để vui chơi. Tất nhiên, ngày nay, việc tiếp cận nhà xác bị hạn chế, nhưng chỉ với một thẻ căn cước là bạn có thể đi tới bất cứ nơi đâu, và tôi đã sẵn sàng đưa thẻ của mình cho lễ tân. Tuy nhiên, không có ai ở bàn lễ tân. Thậm chí chẳng có bàn lễ tân nào cả. Cánh cửa tòa nhà bằng đá nhỏ mở ra một hành lang, từ đó rẽ sang các hành lang khác. Tôi không muốn tình cờ chạm trán một tử thi - tôi đến để xem thi thể bà Eva Glasper, nhằm đảm bảo linh hồn bà Eva Glasper không rời khỏi thân xác bà Eva Glasper, và nhìn vào bất cứ cái xác nào khác cũng là sai, như thể đang ăn cắp – vì vậy mắt tôi hướng xuống đất khi đi qua các hành lang. Sau một lúc tôi nghe thấy gì đó, những tiếng bước chân khác, và tôi đi theo tiếng động đó.
“Tôi giúp gì được cho anh?”
Tôi đoán đó là nhân viên nhà tang lễ. Cô mặc trang phục bảo hộ và đi dép Crocs màu tím.
Tôi nói là đang tìm bà Glasper.
“Anh là người nhà à?”
“Tôi đến từ Đại sứ quán Mỹ. Tôi đã nói chuyện với đồng nghiệp của chị qua điện thoại.”
Cô ấy hỏi giấy tờ xác nhận và dẫn tôi đến thi thể của bà Eva Glasper.
“Tôi mới làm xong cho bà ấy.” Cô nói. “Cho đến giờ tôi chưa thấy có gì đáng ngờ.”
“Sao chị nghĩ là có thể có gì đáng ngờ?”
Cô ấy cho rằng, nếu Đại sứ quán cử tôi đến, điều đó có nghĩa bà Eva Glasper không chỉ là một kĩ sư bình thường, hoặc chúng tôi nghi ngờ có gian lận gì đó.
“Tôi chỉ đến để tỏ lòng kính trọng.” Tôi nói.
Có lẽ cô ấy không tin tôi.
Cô nói để tôi lại một mình với thi thể, nhưng khi cô ấy rời phòng, tôi gần như không nhớ được lí do tại sao mình đến nơi này. Tôi có nên nói chuyện với bà Eva Glasper không? Con gái của bà mong muốn có ai đó giải thích “tình huống” cho bà ấy biết, nhưng tôi có thể giao tiếp thần giao cách cảm không, hay tôi phải nói ra thành lời? Tôi kéo ghế lại gần và ngồi một lúc. Tình huống là gì? Tôi tự hỏi. Điều gì còn chưa rõ ràng với linh hồn hoặc hồn ma của bà Eva Glasper, nếu vẫn đang lơ lửng đâu đó trong căn phòng này?
“Đã có một tai nạn.” Tôi nói. “Bà đã chết.”
Rồi tiếp: “Tôi mang theo cuốn sổ tay của bà.”
Sau một lúc, cảm giác ngồi đó nói chuyện với bà ấy không còn khó chịu như tôi tưởng. Thật sự có cảm giác như bà ấy vẫn còn ở đây, không có gì đe dọa. Có lẽ con gái bà ấy đã đúng, có lẽ một phần nào đó của người đã khuất còn luẩn quẩn vài giờ sau khi chết, và ta cần hướng dẫn nó theo cách nào đó, hoặc để nó biết rằng bạn đang ở đó trong khi nó tìm cách đi đâu đó.
Tôi kể cho cái xác của Eva Glasper nghe về những con ngựa ở California, chúng gần như chết cùng lúc với bà ấy. Có khi bà sẽ gặp linh hồn của chúng ở nơi bà đang định đi đến, thậm chí cưỡi chúng cả chặng đường. Nghe ủy mị, nhưng buông những lời ủy mị, những lời an ủi thật sự khiến tôi nhẹ nhõm. Tôi biết những điều này không có thật, nhưng khiến cái chết trở nên dễ chịu hơn. Ít nhất trong khoảng thời gian ngắn. Tôi nhớ từng đọc đâu đó là cái chết ban đầu rất dễ hiểu, chỉ có khoảng thời gian cảm nhận về nó kéo dài là khó hiểu.
Nhân viên tang lễ gõ cửa và cho tôi biết rằng cô ấy sắp đưa thi thể bà Eva Glasper trở lại phòng lạnh. Cô nhìn quyển sổ trong tay tôi và nói “Thỉnh thoảng tôi cũng đọc cho họ nghe.” Cô tên là Romy.
Cô cầm quyển tạp chí trong tay và lắc, như để chứng minh lời khẳng định.
“Chị nói là chị từng đọc sách cho họ nghe.” Tôi hỏi, “Nhưng có bao giờ chị nói chuyện với họ không?”
“Tử thi á? Tất nhiên là có. Chiều nào tôi cũng nói chuyện với bà ấy.”
Cô đặt tay lên tóc bà Eva Glasper.
“Chị có bao giờ chụp ảnh họ không?”
Đó là điều tôi muốn làm khi mẹ tôi qua đời. Tôi đã nghĩ điều đó sẽ giúp tôi sau này, để nhớ rằng bà đã thật sự ra đi, nhưng tôi biết không nên hỏi cha tôi.
“Đôi khi tôi làm vì lí do pháp lí.” Romy nói. “Nhưng thường là không. Tôi không làm những việc kì quặc đâu. Tôi thậm chí không kể chuyện cười cho họ. Anh phải hành động như thể luôn có người đang quan sát anh.”
“Như Chúa à?”
“Camera thì nhiều hơn đấy.” Cô bảo.
“Ở đây có á? Camera?”
Hẳn là tôi trông hoảng hốt, vì cô cười như nắc nẻ và nói, “Tôi biết ngay! Tôi biết là anh sẽ làm việc gì kì cục. Anh để lại cái gì trên xác bà ấy phải không? Anh có giấu một bí mật nhà nước nào không đấy? Một bảng vi mạch trong miệng bà ấy hả?”
Trên đường về nhà, tôi đi qua rạp phim mà thi thoảng vào thứ sáu sẽ tổ chức, có Đêm Phim Kinh dị, Phim Mới Hollywood, Phim Lãng mạn Hài hước, bất cứ phim gì sẵn có. Với 18 euro, bạn xem được ba tới bốn phim liên tiếp và được phục vụ bữa ăn sáng vào ngày hôm sau. Hôm nay, vì đã cuối tháng 9 và các trường đại học khai giảng năm học mới, nên chủ đề là “Trở lại trường học” với ba bộ phim thanh xuân vườn trường. Tôi đi vào rạp. Có thời gian giải lao ngắn giữa các phim để mọi người đi vệ sinh hoặc ra ngoài hút thuốc, nhưng tôi ngồi yên tại ghế. Tôi muốn các phim hòa quyện vào nhau.
Tôi không ở lại ăn sáng. Tôi không thích bình luận phim với người lạ. Tôi đã thảo luận về chúng với cha từ lâu rồi. Ý kiến của tôi về chúng không thay đổi. Tôi đến quán cà phê gần đó, ngồi trên sân thượng. Đọc báo New York Times trên điện thoại, tôi biết rằng, trong lúc tôi xem phim “Những chàng trai tuyệt vời”, cơn bão Jared đã đổ bộ vào Florida. Người ta bắt đầu tính toán tổn thất do thiên tai.
Một cặp vợ chồng Mỹ cùng con gái ngồi cách tôi vài bàn, tôi nghe được họ trò chuyện. Họ nói đủ lớn để tôi nghe. Họ đã tới Paris được hai ngày, đã biết cách gọi cà phê - bà vợ muốn grand crème (loại nhiều kem) còn ông chồng thích allongé (espresso pha nóng). Họ đã thăm thú Bảo tàng Rodin và Orsay. Ăn sáng xong, họ sẽ mua sắm ở cửa hàng Le Bon Marché bên đường, và đi du thuyền trên sông Seine vào buổi chiều. Nghe có vẻ tuyệt vời về kì nghỉ ở Paris.
Tôi nhìn lên chiếc máy bay cao vài ngàn feet phía trên đầu và suy ngẫm, rằng không có gì khó chịu trên đời bằng ngồi trên máy bay, và không gì dễ chịu bằng ngồi dưới mặt đất nhìn lên máy bay lượn trên bầu trời. Kĩ thuật loài người mới kì diệu làm sao! Chiếc máy bay đó đi tới đâu? Giờ còn quá sớm để nó là chiếc máy bay đưa di thể Eva Glasper đi.
Quán cà phê khá vắng vẻ, và người phục vụ, chắc hi vọng nhận được tiền boa Mỹ, đến hỏi gia đình kia là họ có thích Paris không. Ông bố nói rằng đang học hỏi được nhiều. Các sân vận động của Lutetia để lại ấn tượng sâu sắc với ông. Tưởng tượng rằng Đế chế La Mã đã lan rộng tới đây, có thể ông ta đã bước trên cùng mặt đất với Julius Caesar… thật là điên rồ, ông ta nói. Giờ đây, ông ta đã hiểu tại sao người châu Âu và người Mỹ lại khác nhau như vậy, có những cách tiếp cận cuộc sống và thời gian khác nhau. Làm sao mà họ không khác nhau được cơ chứ?
Trước đây tôi thường hổ thẹn khi những người Mỹ ở châu Âu nói ra điều mà ai cũng biết, nhưng quá rõ ràng nên không cần nói ra. Tuy nhiên, trải qua thời gian, tôi nhận ra không phải người châu Âu nghĩ người Mỹ ngốc mà họ hiểu người Mỹ ít biết xấu hổ hơn thôi. Các vụ ẩu đả ở khu Latin Quarter xảy ra chỉ vì một người Mỹ đã quá lắm lời. (Suốt nhiều năm qua, tôi đã giúp đỡ nhiều nạn nhân của các vụ ẩu đả như vậy.) Tôi hi vọng gia đình Mỹ sẽ tiếp tục thưởng thức chuyến du lịch Paris mà không gặp sự cố nào. Để chắc chắn, có lẽ sau khi họ thanh toán hóa đơn, tôi sẽ đợi và dõi theo họ một chút vào Le Bon Marché. Tôi sẽ giữ khoảng cách nhưng vẫn theo dõi sát sao.
Tôi đi theo họ đến quầy đồ chơi đầu tiên, trông giống như trang trí nghệ thuật, các thú nhồi bông treo từ trên trần xuống, các khối hình Lego lanh tanh bành dưới những khay kính. Cô con gái sợ sệt khi chạm vào bất cứ thứ gì.
“Tại đây họ có bán các bộ Lego thật không nhỉ?” Tôi nghe thấy ông bố nói.
Các hộp Lego để bán thật sự được cất kĩ, chất đống dưới các bàn trưng bày.
“Như thể họ xấu hổ vì muốn nhận tiền của mình.” Bà mẹ nói.
Sau đó, tôi tiếp tục theo họ qua hàng giày dép, túi xách, mĩ phẩm. Tôi nghe cô bán hàng ở quầy mĩ phẩm Chanel hỏi bà mẹ, bằng tiếng Anh, liệu chị và con gái có muốn làm đẹp không. Bà mẹ trông như bị tổn thương khi bị nhận ra là người Mỹ rõ ràng như vậy, nhưng bà đáp “Vâng, sao không nhỉ?” Nhân viên quầy Chanel cho cô bé và mẹ ngồi trên ghế cao, và bắt đầu làm đẹp cho họ cùng một lúc, như một kì thủ cờ vua đấu cùng lúc hai trận cờ.
Ông bố, biết rằng sẽ phải chờ ít nhất 20 phút, bắt đầu tìm cách giết thời gian. Ông nhận ra tôi “Anh ngồi cạnh chúng tôi ở quán cà phê!” Ông nói. Ông dường như không thấy thế có gì lạ lẫm. Tôi cảm thấy tội lỗi vì đã theo đuôi họ. Nếu ông hỏi tôi đến Paris làm gì, tôi đã sẵn sàng trả lời là tôi đến tham dự hội nghị hàng không vũ trụ, và cho ông thấy cây bút cùng quyển sổ tay của bà Eva Glasper làm bằng chứng, nhưng thay vào đó ông hỏi tôi đang làm gì ở cửa hàng bách hóa. Tôi nói rằng tôi đang mua sắm cho vợ và con gái của mình. Tôi sẽ về nhà vào ngày mai, tôi đã đến đây vì công việc – những cô gái sẽ muốn có vài món quà từ nước Pháp. Ông hỏi con gái tôi bao nhiêu tuổi. Sau tất cả những lời nói dối trước đó, lẽ ra tôi không bị khó khăn, nhưng tôi đứng ngay đơ. Tôi không thể nghĩ ra tuổi giả cho con gái tưởng tượng của tôi. Người đàn ông dường như hiểu lí do, và ông vỗ vai tôi. Ông nói rằng chúng ta lo lắng quá nhiều cho những cô gái của chúng ta, đến nỗi quên theo dõi chúng lớn lên. “Con gái tôi có lẽ lớn hơn 2 tuổi so với tôi nghĩ.” Ông đùa, trước khi dẫn tôi đi xung quanh khu bán trang sức. Theo ông, tôi không nên cố gắng quá sáng tạo, tôi chỉ nên mua cho con gái một chiếc dây chuyền đơn giản, một sợi dây vàng với một mẫu trang sức, có thể là chữ cái đầu tiên của tên cô bé? Một món đồ không bao giờ lỗi thời. Tôi rời Le Bon Marché với ví tiền nhẹ đi 500 euro - chỉ nhiều hơn một chút so với số tiền mà Lisa Glasper trả cho tôi nếu tôi nhận tiền từ cô ấy. Một chiếc dây chuyền cho con gái tôi, một chiếc túi xách bằng da cho vợ tôi.
Tôi chia tay gia đình người Mỹ trên vỉa hè. Nhân viên quầy Chanel đã làm cô bé trông già đi và người mẹ trẻ hơn nhiều, làm tăng thêm cảm giác tôi từng có trước đây, sau khi ở quá lâu trong các cửa hàng bách hóa, rằng những nơi này giống như có cánh cửa thời gian hỏng, thời gian di chuyển khác biệt ở đó. Chỉ có ông bố không thay đổi. Chúng tôi bắt tay và chúc nhau chuyến đi an toàn về nhà, là ngày mai với tôi, vào thứ Tư với gia đình ông. Tôi nói rằng họ nên tận hưởng thời gian ở Paris, và ông không có vẻ nghi ngờ gì điều đó. Không có điều gì xấu xảy ra với họ, và họ cũng không làm gì ngu ngốc. Tôi đợi cho đến khi họ đi khuất vào Métro, rồi tôi quay lại để trả các món hàng vừa mua.
Nguyễn Ngọc Mai dịch