Trong vô số những chủ đề của đạo Phật, tôi luôn chú ý đến chủ đề cốt lõi “Đời là bể khổ”, và tự hỏi có thật “đời là bể khổ” như chúng ta vẫn nghĩ hay không.
|
Hơn hai mươi năm trước, khi tìm hiểu về giáo lý “Tứ diệu đế” và đọc rất nhiều tài liệu lý luận về khái niệm “Khổ đế” (Dukha) - sự thực đầu tiên trong 4 sự thực được Đức Phật phát hiện 2.600 năm về trước, tôi cứ đinh ninh trong đầu mình rằng: Đời là bể khổ. Càng đọc các tác phẩm mang tính triết học Phật giáo và tâm lý học Phật giáo, tôi càng củng cố ý nghĩ đó. Tóm lại, khi tiếp cận Phật học ở phương diện lý thuyết thuần tuý cái nhìn về “Khổ đế” của tôi chỉ dừng lại ở mức độ này. Và nhiều năm sau đó, khi tiếp tục là một “con mọt sách”, tôi vẫn dừng lại ở mức độ này.
Tuy nhiên, sau khi thoát khỏi sách vở để (1) thực chứng những nỗi khổ trong cuộc đời mình, (2) thực hành thiền định và thiền tuệ để chữa lành cho mình, (3) đi vào chiều sâu tâm lý của người khác, chứng kiến quá trình được chữa lành của họ thì vẫn là khái niệm “Khổ đế” (Dukha), tôi lại có một cái thấy khác. Rất khác. Khác hẳn so với cái thấy của hai mươi năm về trước.
Bây giờ tôi nhận ra “Khổ đế” - “đời là bể khổ” thực ra là một cách phát biểu của tâm thức - là một sự ghi nhận trong quá trình tâm thức con người tương tác với hiện thực khách quan, chứ không phải là sự ghi nhận hiện thực khách quan, như chính nó vốn có, chính nó đang là. Nếu ghi nhận hiện thực như chính nó đang là, ta phải nói rằng “đời là đời”, hoặc “đời là biến động”. Khổ/sướng, buồn/vui… hoàn toàn là những trạng thái tâm thức. Chính vì vậy sau sự thực thứ nhất “Khổ đế”, Đức Phật mới nói đến sự thực thứ hai “Tập đế” - nguyên nhân của nỗi khổ. Nguyên nhân đó là tham - sân - si. Cả “tham”, lẫn “sân”, lẫn “si” cũng đều là đặc tính của tâm, chỉ xuất hiện ở trong tâm, chứ không xuất hiện như một hiện thực khách quan bên ngoài. Như thế, càng đi sâu, thực chứng “Tập đế” ta sẽ càng củng cố cái thấy về “Khổ đế” như đã trình bày ở trên: nó hoàn toàn là đặc tính của tâm!
Khi nhận rõ “khổ” thuộc về tâm, nguyên nhân nỗi khổ cũng thuộc về tâm, Đức Phật đã rất logic khi khẳng định: hoàn toàn có thể diệt trừ nỗi khổ - “Diệt đế”. Và phương pháp cốt lõi để diệt trừ nỗi khổ chính là thay đổi tâm - “Đạo đế”. Bản chất sâu thẳm của “Đạo đế” là thay đổi tâm của mình, chứ không phải thay đổi người khác, càng không phải là thay đổi hiện thực khách quan.
Bình thường, ta rất dễ vin vào “Khổ đế”, rồi diễn giải rằng “đời là bể khổ”, từ đó quy kết bản chất của hiện thực khách quan là “khổ”. Gặp bất cứ trở ngại vướng mắc nào cũng dẫn luận “đời là bể khổ”. Cách dẫn luận ấy có thể đem lại những an ủi tức thời nhưng là một cách hiểu sai lầm và nguy hiểm. Sai lầm, vì rõ ràng nó không đúng bản chất “Khổ đế” với những vận động ở trong tâm như đã phân tích. Nguy hiểm, vì nó dễ tạo ra một sự ỷ lại, một sự chấp nhận hiện thực khách quan, từ đó không chịu cố gắng thay đổi, sửa chữa bản thân để kiến tạo một cuộc sống hạnh phúc hơn trong tương lai. Tôi đã nhìn thấy không ít người hiểu “Khổ đế” theo cách này, từ đó buông mình cho hoàn cảnh, và sống một cuộc sống cam chịu, cứ như thể cuộc đời mình mãi mãi sẽ là như thế, không sao thay đổi được.
Càng thực chứng quá trình “chữa lành” của chính mình và của nhiều người khác, tôi càng nhận ra: ta không thể hiểu “Khổ đế” (Dukha) theo cách đó, càng không thể tách “Khổ đế” khỏi “Tập đế” - “Diệt đế” - “Đạo đế” trong giáo lý “Tứ diệu đế” của Đức Phật. Trong quá trình nghiên cứu lý thuyết, ta có thể tạm thời tách biệt như vậy để dễ hiểu từng khái niệm, nhưng trong thực tế cuộc sống không thể có một sự tách biệt như vậy. Bốn yếu tố phải liên hệ với nhau, vận động cùng nhau, tương tác qua lại lẫn nhau. Có “Khổ đế” - tức là có một ưu phiền trong tâm, thì cũng có “Diệt đế” - tức là cũng có thể diệt trừ ưu phiền trong tâm. Từ “Khổ đế” đến “Diệt đế” là một sự thực, một mối quan hệ trong tính biện chứng sâu sắc của nó. Và cặp “Khổ đế” - “Diệt đế” cũng có một mối quan hệ biện chứng sâu sắc như thế với cặp “Tập đế” và “Đạo đế”.
Cùng thua một khoản tiền chứng khoán như nhau, nhưng tại sao có người thấy đau khổ như trời sập, lại có người vẫn bình tĩnh như thường? Cùng chịu một sự mất mát người thân giống nhau, nhưng tại sao có người đau khổ đến rối loạn lo âu, trầm cảm, lại có người bình tĩnh chấp nhận như chấp nhận một quy luật không thể khác của cuộc đời? Câu trả lời là: năng lực tâm thức của mỗi người khác nhau. Và khổ hay không khổ được quyết định ở năng lực tâm thức bên trong mỗi người, chứ không nằm ở những vận động hoàn cảnh bên ngoài. Đức Phật từng nói đại ý: nếu lòng ta là một cốc nước, người ta ném vào nắm muối, cốc nước sẽ mặn, nhưng nếu lòng ta là một dòng sông, người ta ném vào một nắm muối, dòng sông chẳng vì thế mà mặn thêm. Nắm muối là một hiện thực khách quan bên ngoài ta. Người khác cũng là một hiện thực khách quan bên ngoài ta. Những khoảnh khắc đâu đó trong cuộc đời, có thể ta cũng ảo tưởng rằng mình có thể thay đổi hiện thực khách quan theo ý mình, thay đổi người khác theo ý mình. Nhưng thực ra thay đổi những đối tượng ngoài mình luôn là điều hết bất trắc và mong manh. Vì một lý do trước mắt/nhất thời nào đó mà một người nào đó, trong một thời điểm nào đó ngoan ngoãn nghe theo ý ta thì cũng đừng vội tưởng rằng họ đã hoàn toàn nghe ta và luôn luôn, mãi mãi nghe ta. Do vậy, xây dựng hạnh phúc dựa trên những sự thoả mãn bên ngoài luôn là kiểu hạnh phúc thiếu bền vững. Nhưng thay đổi tâm thức, thay đổi thái độ, thay đổi cảm xúc, thay đổi con người bên trong mình lại đem tới những giá trị bền vững, lâu dài.
Dĩ nhiên, đấy không phải là công việc ngày một ngày hai. Không có phép màu nào để hô biến “cốc nước” thành “dòng sông”. Ở những giai đoạn đầu tiên của cuộc đời, khi lòng ta vẫn đang là “cốc nước” thì việc đổ lỗi ra bên ngoài, đổ lỗi cho hoàn cảnh, đổ lỗi cho người A, người B, người C… cũng là dễ hiểu. Nhưng việc quay vào bên trong nhận diện mình, không ngừng chánh niệm với thân thể/cảm xúc/và tâm thức mình sẽ giúp chúng ta từ từ nới rộng kích cỡ của “cốc nước”: từ một cốc nước nhỏ có thể trở thành cốc nước lớn; từ một cốc nước lớn có thể trở thành một cái giếng; từ giếng có thể thành ao, từ ao có thể trở thành sông hồ, biển cả… Cứ như vậy, ta sẽ củng cố được nội lực, từ đó biết đối diện với các bất như ý bằng một thái độ điềm tĩnh thông suốt. Lúc đó, đời không còn là “bể khổ”, ngay cả khi những diễn biến bên ngoài trái ý ta.
Theo tôi, trong một thời đại với vô vàn biến động không thể nào biết trước như thời đại chúng ta đang sống thì đây chính là giá trị lớn nhất mà đạo Phật trao tặng con người.