Tháng tư năm 1945, sau khi cướp xong đồn Ba Tơ, vốn biết tiếng Thượng nên tôi được giao công tác đi vào Các Muôn để tranh thủ sự ủng hộ của đồng bào các dân tộc. Đầu tiên, tôi cùng anh Kiệt và một số đồng chí khác tìm đến Gọi Da thu phục Đinh Rói - một Tù trưởng có uy thế và giàu có trong vùng.
Từ Gọi Y - nơi đội du kích đang ở đến Gọi Da mất ba ngày đường. Sau mấy hôm leo dốc, khoảng ba giờ chiều chúng tôi đến nơi. Quang cảnh núi rừng làm tôi có cảm giác như trời sắp tối. Dãy chòi nằm im lìm dưới chân núi không một bóng người. Thỉnh thoảng từ trong rừng sâu vọng ra vài tiếng la hét. Hình như tất cả tôi tớ và binh lính của Đinh Rói đều vào rừng để săn bắn và bố trí luyện tập, phòng thủ.
![]() |
Minh họa Trần Thanh Vân |
Chúng tôi im lặng nhìn vào trong các chòi. Đồ đạc chẳng có bao nhiêu nhưng trông có vẻ lộn xộn. Trên những giàn cây gác ngang qua mái nóc, cung tên và giáo mác treo lơ lửng. Bóng chiều chầm chậm buông. Gió rừng rít lên từng đợt, cây cối nghiến vào nhau, tạo nên những âm thanh kỳ quái. Sự vắng vẻ và hoang vu làm chúng tôi thấy rợn người.
Chúng tôi đang lo lắng nhìn nhau; thì bỗng có ai đó thét lên:
- Bày vi ô ti lé, chủ đi cô?(1)
Tiếng thét như tiếng hổ rống. Chúng tôi giật mình nhìn xéo sang góc trái dãy chòi, thì một bóng người trong chòi vụt nhảy ra. Tóc ông ta dựng đứng, mắt trợn trừng, giận dữ. Bộ ngực đầy lông lá to bè và một chiếc khố chật căng quấn quanh người. Ông ta đứng trên một mô đất cao giữa quãng đồi quang, chân dang rộng vững chãi, tay phải giơ ngang hơi lệch về phía trước, cái lưỡi mác dài chừng hai thước, sáng lòa... Chúng tôi yên lặng nhìn nhau...
Đó! Đinh Rói đã xuất hiện trước mặt chúng tôi như thế đó!
Cố bình tĩnh chờ cho cơn giận của ông ta vợi bớt tôi mới chầm chậm trả lời:
- Ở Khu An trí lên đó. Chúng tôi tìm già để cùng nhau đánh thằng Pháp, đuổi thằng Nhật, giành độc lập đây.
Chừng như chưa hết giận, ông ta lại gầm lên:
- Đời ông, đời cha, cho đến cả đời tao đây, Pháp cũng đánh, Nhật cũng đánh, không theo ai cả.
Bỗng ông ta nhún chân; nhảy khỏi mô đất, chỉ lưỡi mác về phía chúng tôi, rống lên:
- Và cả lũ bay nữa! Tao giết! Giết hết...
Ông ta lại nhảy lên mô đất, cắm phập lưỡi mác xuống cạnh mình, đưa tay lên miệng, người quay tròn. Sau đó một tiếng hú lanh lảnh truyền đi khắp núi rừng. Chúng tôi còn đang phân vân đối phó thì hàng ngàn tiếng hú đáp lại, hàng ngàn tiếng chân chạy thình thịch từ rừng sâu vọng ra.
Một phía, rồi hai phía, ba phía, bốn phía núi, binh lính ùa ra vây quanh lấy chúng tôi giữa một rừng giáo mác và cung tên tua tủa.
Thú thật, trước khi đi, anh em chúng tôi đã lường trước được mọi việc. Nhưng lúc này ai cũng nghe sau gáy mình như có một dòng máu lành lạnh chạy qua. Anh Kiệt đảo mắt nhìn sang anh Hùm, anh Đều và anh Đức Lạc. Chỉ vỏn vẹn bốn khẩu súng. Thật là nguy nếu Đinh Rói vẫy tay ra hiệu cho bọn lính tấn công.
Tôi trấn tĩnh lại. Tự nhiên thấy rằng mình phải là người bình tĩnh hơn cả. Tôi đĩnh đạc bước tới trước mặt Đinh Rói, nói to:
- Mục đích chúng tôi đến đây không gì hơn là để cùng già hiểu bụng nhau mà chung tay đánh Pháp, đánh Nhật, cho đất nước mình được độc lập tự do. Trước đây, do thằng Pháp chia rẽ chớ ta là người một nước Việt Nam thôi. Bọn nó gọi chúng tôi là Lui (người ta); còn gọi già là Gồng (mọi) để cho người ta và mọi chém giết lẫn nhau. Thế rồi Gồng muốn giết Lui, Lui bèn giết Gồng chớ bọn Pháp nó có chết đứa nào đâu.
Đôi mắt Đinh Rói hết nhìn anh em lại nhìn tôi. Rồi như không nghe lời tôi nói, lão đột ngột hỏi tôi:
- Mày là ai?
Tôi nói dối:
- Cha tôi người Thượng, mẹ người Kinh.
- Sao vậy? - Lão cắt ngang.
- Vì cha tôi bị Pháp lùng bắt, phải chạy về xuôi lấy vợ người Kinh.
Lão trừng mắt nhìn tôi như dò xét, giọng chắc nịch:
- Đúng không?
- Đúng! - Tôi nói dõng dạc.
Cũng chưa tin hẳn, lão lại hỏi:
- Sao mày không cắt cái răng?
Vì ở dưới Kinh mà cắt răng thì bọn Pháp nó bắt, nó chém chết cả cha mẹ.
Nghe tôi trả lời suôn sẻ, lão gật đầu: Gió(2). Giọng lão bỗng trầm hơn:
- Tao nói thiệt là tao chưa tin mày... - Lão nghiêng đầu sang một bên rồi hích lên, hỏi tiếp: - Ai dẫn mày lên đây?
![]() |
Minh họa. Nguồn: Internet |
Sực nhớ tới người Thượng đưa đường cho chúng tôi mấy ngày nay, lúc nãy đến đây đã lắp bắp chỉ hướng: “Tới nơi rồi! Lão Đinh ở đó, giờ tui phải xuống kẻo lão biết là chém chết. Lão bảo người lạ biết chỗ lão ở thì thằng Pháp cũng biết, không thể được.” Biết thế, nên tôi nói:
- Tôi tự tìm đường lên, vì biết già cũng đánh Tây. Bây giờ người Kinh đánh được Pháp Nhật rồi thì người Thượng cũng sẽ đánh được tụi nó thôi.
Đôi mắt Đinh Rói nhìn thẳng về phía núi sâu, suy nghĩ. Rồi như chợt nhớ ra điều gì, lão quay phắt về phía chúng tôi, bảo:
- Thôi, hãy đánh thử với tao đi!
Tôi đoán được ngay điều lão vừa nghĩ, lão muốn thử sức xem lực lượng lão có đánh được Pháp Nhật như mình hay không! Tôi vội khoát tay:
- Không! Đã nói là dân một nước trước nay bị Pháp chia rẽ giết nhau bậy bạ, giờ còn đánh nhau thì không phải dân một nước đâu. Là thù nhau rồi.
Bỗng chung quanh, bọn lính hét lên: “Gió! Gió! Gió!”
Anh em hoảng hốt quay lại chuẩn bị đối phó, nhưng thấy tôi mỉm cười, khoát tay ra hiệu nên thôi.
Thì ra bọn lính nãy giờ cắp giáo mác đứng im để theo dõi cuộc đối đáp. Giờ nghe tôi nói đúng nên cũng đồng tình la lên như thế.
Được bọn lính tiếp sức, tôi hăng lên:
- Già ở đầu nước, cái nước chảy xuống xuôi, người Kinh múc uống. Uống nước cùng dòng nên cả Lui và Gồng đều chung cái bụng thù thằng Pháp, thằng Nhật.
Bọn lính nhìn nhau cười, chỉ tôi, gật đầu: “Gió! Gió!”
- Bây giờ đây, mình đoàn kết cùng nhau. Thắng Pháp, thắng Nhật rồi thì ở dưới đưa cái vải, cái muối lên để cho già và dân làng trên nầy không còn bị con muỗi cắn, con vắt hút máu mình. Rồi trên này già cùng dân làng sản xuất, gởi nhiều đồ về xuôi cho người Kinh đỡ bớt trèo con dốc, cái suối. Già nghĩ thế nào?
Đinh Rói không trả lời, khoát tay ra lệnh cho bọn lính:
- Vào nhà đốt lửa cho sáng cái chòi lên! Lấy chiếu bông trải trên đầu tra để ta mời quân du kích!
Anh em nhìn nhau, thở phào. Sau khi đưa chúng tôi vào chòi, nhìn lại, chúng tôi thấy già Rói đã biến mất. Đột nhiên, hai ngọn đuốc trên đầu tra được đốt sáng. Chúng tôi nhìn lên... Già Rói bây giờ không còn là già Rói lúc ban chiều. Lão uy nghiêm, đạo mạo trong bộ đồ Tù trưởng trổ đầy hoa, bước xuống mời chúng tôi. Anh em lần lượt bước lên bậc thềm bằng gỗ, ngồi xuống tấm chiếu bông được trải thẳng thớm. Đâu đó xong xuôi, Đinh Rói hỏi:
- Lũ mày ǎn cơm chưa?
Cơn đói từ chiều được quên đi, giờ lại nổi lên cồn cào gan ruột.
- Thưa chưa! - Tôi nhanh nhảu đáp lời già.
- Tao trên này ăn khổ cực lắm. Nhưng bay lên đây rồi thì đêm nay ở lại đây ăn cho no say một bữa.
Bỗng anh Kiệt hích hích tôi, nháy mắt. Tôi hiểu ý, quay sang bảo già Rói:
- Khoan giết con heo, con bò đã. Chuyện đó già nghĩ thế nào?
- Còn chuyện gì nữa? - Già Rói ngạc nhiên hỏi.
- Thì cái chuyện đánh Pháp Nhật đó!
Lão liếc mắt nhìn binh lính rồi nhìn anh em tôi, nói:
- Người Thượng tao ăn thiệt nói thiệt. Sao bay ít lính quá vậy? Thằng Tây nó đông, bay đánh làm sao?
- Giờ thì ít, sau đông, lo chi già? Người Kinh người Thượng mình hợp lại, hiểu bụng nhau rồi thì đố thằng giặc nào dám đến.
Nghe xuôi tai, già Rói chẳng nói gì thêm, chụp lưỡi giáo bên cạnh, giơ lên nóc chòi ra lệnh:
- Khêu đuốc thêm cho cái lửa nó đốt lên trời. Nổi chiêng lên cho cái đất nó rung! Giết con gà, chém con heo để mừng quân du kích!
Cả một vùng rừng núi sáng rực lên ánh đuốc, náo động tiếng chinh chiêng. Suối như ngừng chảy. Thú rừng đã chạy xa. Không còn nghe gì ngoài những âm thanh nơi đây nữa.
Rượu được đổ vào một cái ché to với sáu cái cần dài đặt ở giữa. Chúng tôi vây quanh. Lẳng lặng và bình thản, già Rói cầm chiếc dao con dí sát vào cánh tay trái, cứa mạnh. Máu tuôn ra, vọt vào ché rượu. Chúng tôi hoảng hốt nhìn nhau. Anh Kiệt vội chụp lấy tay lão. Lão lắc đầu, đôi mắt sáng quắc nhìn chúng tôi, chân thực và quả quyết:
- Chích máu ǎn thề!
Chỉ nói bấy nhiêu rồi lão nhìn vào ché rượu. Những giọt máu từ tay lão nhỏ vào ché, hòa với rượu thành những sợi dây máu li ti kéo dài. Đôi mắt già đăm chiêu và vô cùng hiền hậu. Có lẽ đây là giờ phút thiêng liêng đối với đời lão. Chúng tôi nhìn lão đầy cảm phục, rồi chẳng ai nói với ai lời nào, cả năm bàn tay cùng đưa ra. Những giọt máu nối nhau rơi vào ché rượu hòa cùng máu của già Rói. Máu! Màu máu đỏ thắm mối tình Kinh - Thượng!
Xong xuôi, lão truyền lính hầu đem mũi giáo, mũi tên nhúng vào ché rượu máu. Anh Đều cũng vội vã gỡ hai viên đạn nhúng vào. Binh lính bưng lên một con gà luộc. Lão ra hiệu đặt xuống bên cần rượu rồi nói với chúng tôi:
- Nào, ta uống đi!
Sáu cái cần được đặt vào sáu miệng cùng một lúc. Cần cong lên và rượu trong ché cạn dần. Già Rói cầm chiếc đùi gà còn bốc khói, giơ tay ra trước, vừa cười vừa nói:
- Uống cái này rồi, đứa nào cái tay đây đang úp mà ngửa lên thì ra đường cọp tha, xuống suối ma nhận nước, vào rừng cây ngã chặn nhằm người.
Chúng tôi vui vẻ cùng nắm tay nhau úp ra trước mặt lāo, nhìn lão mỉm cười. Lão gật đầu cười đáp rồi hỏi lớn:
- Nội đậy đứa nào là chủ?
Tôi chỉ tay sang anh Kiệt. Lão liếc nhìn sang anh Kiệt rồi quay lại nhìn tôi, soi mói:
Cha mày Thượng, mẹ mày Kinh, sao mày không là chủ?
- Vì ở dưới xuôi, bọn Pháp nó khinh người Thượng ta lắm, nó không để yên cho người mình làm chủ đâu.
Nhìn sang anh Kiệt, tôi tiếp:
- Vả lại người này hiểu biết hơn, đánh Pháp giỏi hơn và được người Kinh tin nên giao cho làm chủ đó già à.
- Được rồi! - Lão cầm chiếc đầu gà đưa cho anh Kiệt bảo, Chủ ăn đi!
Nói đoạn, lão ngồi lui ra sau, với tay lấy một cọng lồ ô đốt lên rồi xắn quần chích lửa vào đùi. Thấy chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau, lão cười rồi đưa ngọn lửa lồ ô ra trước mặt anh Kiệt, nói:
- Đốt vế tế trời đất, thần linh. Nào, chủ hãy làm trước. Nhớ mãi mãi về sau, khi giơ đùi ra, còn vết đốt này thì nhớ cái buổi lễ hôm nay mà giữ cái bụng cho trong như nước con suối chảy ngoài kia.
Biết lòng tin của người miền núi đối với tập tục rất nghiêm, nên anh Kiệt cùng chúng tôi lần lượt tự đốt vế mình. Thịt cháy rèn rẹt, xông lên mũi hăng hắc rồi tỏa ra khắp chòi.
Tiếng chinh chiêng vẫn vang xa và lửa vẫn rực một góc trời. Mâm cơm với đầy đủ các loại thịt rừng được thay vào chỗ ché rượu đã cạn. Vừa ăn, già Rói vừa nói:
- Giờ bay muốn gì?
Vẫn không rời mục đích chính, tôi nói:
- Không muốn gì cả. Chỉ muốn sao già cùng chúng tôi đánh thằng Pháp, thằng Nhật, giành về mình đất nước được độc lập tự do.
- Không! - Lão nói - Cái đó xong rồi. Còn cái khác kia.
- Dạ, cái gì thưa già?
Lão nhìn chúng tôi, trầm giọng:
- Bay có đói không?
Trước câu hỏi quá đỗi thật thà của lão, anh em chúng tôi đưa mắt nhìn nhau. Không ai nói với ai lời nào, nhưng tôi biết mọi người đều xúc động. Tôi nhìn ông già. Vẻ hung dữ lúc ban chiều như không còn đọng mảy may nào trên khuôn mặt hiền từ và chất phác ấy, bùi ngùi đáp:
- Quân du kích lâu nay đói lắm vì bị thằng Pháp, thằng Nhật nó lùng, nó kiếm suốt, không làm ăn được gì. Cái hận, cái thù nuốt đầy trong bụng nên phải quyết đánh nó cho được mới hả lòng.
Chừng như cũng xúc động, lão đưa mắt nhìn anh em rồi nói với tôi:
- Thôi được! Lúa tao dưới đồng sắp chín rồi, nhiều lắm. Ngày mốt tao cho bọn lính xuống gặt. Mầy với một đứa nữa đến đó đón tao rồi lấy lúa đem về dưới cho quân du kích ăn thiệt no cái bụng trước đi.
Thấy mục đích đã đạt được và tiếng chinh chiêng đâu đó đã thưa dần. Đã nghe vọng về tiếng suối chảy. Từ rừng sâu, gà rừng đã gáy vang. Anh Kiệt bảo:
- Mình về thôi!
Tôi gật đầu, quay sang phía ông già Đinh Rói:
- Hôm nay anh em chúng tôi đến để cùng già chung một bụng đánh Pháp. Giờ đêm đã tàn, già cho phép anh em chúng tôi xuống núi để báo tin mừng cho quân du kích.
Lão đứng phắt dậy:
- Được, bay theo tao!
Vào trong trút bỏ bộ đồ hoa, lão bước ra gọn gàng trong chiếc khố. Lão với tay lấy lưỡi mác, bước xuống bậc thềm. Đợi cho già Rói và anh em xuống hết, tôi nhìn binh lính của Đinh Rói cất tiếng hỏi:
- Hôm nay quân du kích lên đây, được già và anh em giúp đỡ rất nhiều. Quân du kích xin cảm ơn và mong rằng chúng ta sẽ luôn đoàn kết để cùng nhau treo xác thằng Pháp lên ngọn chông, phanh thây lũ Nhật trên bẫy đá. Giờ xin phép anh em cho quân du kích xuống núi.
Tiếng chinh chiêng lại nổi lên cùng tiếng reo hò. Chúng tôi xuống khỏi cầu thang và lách mình nhảy ra khỏi chòi, lẹ làng bước theo già Rói.
Đường núi về đêm càng đi như càng rúc sâu vào hang tối. Già Rói quay lại dặn:
- Bay đi sau, bước đúng theo bước của tao, kẻo sa chông đấy.
Con đường càng cheo leo, lão đi càng nhanh nhẹn. Rừng núi lúc này như cả một kho bí mật và đầy đe dọa. Thỉnh thoảng, tiếng một con mang tác đâu đó vọng lại. Rồi tiếng chó sói tru vang. Trước mặt chúng tôi là ông già, đi sau có thêm hai người lính hầu, thế nhưng trong màn tối bao la ấy, tôi vẫn nghe có cảm giác ớn lạnh.
Cây cối quang dần. Bỗng chúng tôi ngạc nhiên khi thấy ánh lửa ở Gọi Y thấp thoáng phía trước. Nơi đội du kích đóng kia rồi! Thì ra con đường tắt bí mật này dẫn chúng tôi đi chỉ mất khoảng hai giờ đồng hồ, thay vì lúc lên phải ba ngày đêm lặn lội.
Già Rói dừng lại trên mỏm đá, đưa tay chỉ xéo sang phía tây, bảo tôi:
- Mai mày đến đó đợi tao!
Hướng mắt về phía có ánh lửa xa xa, lão tiếp:
- Sau này, quân du kích ở dưới đó có lên thăm tao thì hãy nhớ con đường này. Hễ đứa nào thấy cái dây tao giǎng còn tươi cái lá, chớ có bước qua mà bị sập hầm sa bẫy chết như con hổ, con beo, nghe chưa?
Rồi chẳng nói gì thêm, lão ra hiệu cho hai người lính quay trở về.
Chúng tôi về tới Gọi Y thì trời cũng vừa sáng.
Hôm sau, tôi và một du kích đến nơi hẹn. Già Rói đem ra hai con heo và năm chục gùi lúa, bảo tôi:
- Cái này đây mày đem về dưới đó, rồi tao sẽ cho quân đem thêm xuống nữa cho. Đánh, phải đánh... Nhớ nghe!
Rồi giọng lão trầm xuống, đôi mắt hướng về phía núi cao (hình như lúc nào nói tới điều gì quan trọng, lão cũng nhìn như thế). Và lão đưa bàn tay úp ra phía trước, nói:
- Nhớ giữ mãi cho bàn tay nó úp, đừng ngửa lên mà thằng Pháp nó chặt cụt mất, nghe chưa!
Tôi lặng lẽ đưa bàn tay ra, úp nhẹ lên tay lão. Không ai bảo ai, nhưng hai bàn tay từ từ siết chặt vào nhau...
Tiếng nước suối từ Gọi Da vẫn chảy về, róc rách reo vui...
HUỲNH HỒNG kể
MAI BÁ ẤN ghi
(1) Bay ở đâu, đến đây làm gì?
(2) Đúng!