Đọc thêm: Truyện ngắn đoạn giải cuộc thi Truyện ngắn Báo Văn Nghệ 2022-2024
Trong tiểu luận “The Small Voice of History” (Tiếng nói nhỏ của lịch sử, 1996), nhà nghiên cứu Ranajit Guha đã đặt ra vấn đề thừa nhận, ghi nhận và lắng nghe tiếng nói của những người subaltern - những người nhược tiểu, nhỏ bé, ở vị trí thấp kém, thậm chí bị đẩy ra bên lề xã hội, những người mà tiếng nói ai oán của họ rất có thể đã bị chìm khuất giữa tiếng ồn ào của lịch sử thống kê, những người mà quan điểm, cái nhìn và câu chuyện của họ rất có thể đã bị bỏ qua, bị làm ngơ và không được tính đến trong các tự sự quốc gia - dân tộc[1].
Cùng với nhau, Ranajit Guha và các nhà phê bình hậu thuộc địa khác đã nỗ lực tìm kiếm và diễn giải tiếng nói của người subaltern trong văn chương để cho thấy một lịch sử khác - “lịch sử từ bên dưới” - lịch sử về ý thức, tiếng nói, sự chủ động, chủ thể tính của những cá nhân yếu thế, bé mọn trong các hệ thống phân cấp xã hội, chính trị hoặc kinh tế.
Tại sao văn chương lại được lựa chọn làm phương tiện trung gian để đọc ra tiếng nói của người subaltern? Như Phạm Phương Chi giải thích trong tiểu luận “Tiếng nói của subaltern, việc viết sử từ dưới lên ở Ấn Độ và vai trò của phê bình văn học” (2024), văn chương có khả năng “làm những quá trình biểu đạt không được thừa nhận về tính subaltern trong tác phẩm lịch sử trở nên hữu hình”[2]. Với những lợi thế của mình, văn chương còn có khả năng biểu đạt một cách sống động và cụ thể đời sống của con người, bởi vậy, tiếng nói subaltern được biểu đạt trong văn chương thậm chí còn khiến độc giả xúc động và đồng cảm.
Có thể tìm thấy những tiếng nói subaltern như thế trong một số tác phẩm vừa được trao Giải thưởng Truyện ngắn của Báo Văn nghệ năm 2022-2024.
Đó là tiếng nói họa hoằn mới thốt ra của Nghĩa – thầy giáo ở một ngôi trường miền núi, đã lớn tuổi mà chưa có gia đình vì luôn mang trong mình nỗi mặc cảm về gương mặt rỗ và đồng lương ít ỏi, luôn là tâm điểm của những lời nói móc mỉa và sự gán ghép ít thiện chí của đồng nghiệp (“Núi vỡ” – Lữ Hồng).
Đó là tiếng nói ít khi được chú ý của ông Cấn – một ông già bị xem là “hâm”, “lú lẫn”, “khó tính” và “phiền phức”, thậm chí còn không bằng những chiếc bình cổ mà cậu con trai làm trong ngành quản lý di sản vẫn hàng ngày nâng niu (“Thư viện người” – Lê Văn Thân).
Đó là tiếng nói bị mờ nhòe của một chiến sĩ nằm vùng được thu vào một cuốn băng cassette mà sau này, phải nhờ những kỹ thuật tiên tiến và tâm huyết của một người trân trọng những âm thanh của quá khứ mới có thể được khôi phục gần như nguyên trạng để truyền đến tai mẹ của người chiến sĩ đó (“Tiếng vọng” - Vương Đình Khang). Người mẹ ấy cũng là một “subaltern”, vì căn nhà của bà đã bị tháo dỡ để xây chợ đầu mối, còn bà bị chính quyền xếp vào danh sách “đối tượng cần lưu ý ở địa phương” sau bao nhiêu năm thưa kiện khắp nơi để xin truy phong cho con trai mình là liệt sĩ nhưng không có hồ sơ, giấy tờ nào chứng thực cho lập trường, nhiệm vụ của người con trong chiến tranh.
Đặc biệt, đó là tiếng nói Trăm Ngàn – một người đàn ông gần 50 tuổi nhưng không có gì ngoài “khối ẩn ức trong lòng”, như nhận định của Thúy, người cùng gánh hát với Trăm Ngàn (“Trăm Ngàn” – Ngô Tú Ngân). Gánh hát hay những phận người trong gánh hát vốn không phải là đề tài quá mới mẻ trong văn chương mà đã từng được khai thác trong “Kép Tư Bền” của Nguyễn Công Hoan, “U ẩn tiếng đàn” của Nhật Hồng, hay “Cũng nằm trong tơ” của Phan Duy... Tuy nhiên, thay vì tập trung vào tình cảnh nay đây mai đó của cả một gánh hát hay cuộc đời thực đầy nỗi đắng cay của những đào kép được ăn vận, trang điểm lộng lẫy trên sân khấu như các tác phẩm khác, Ngô Tú Ngân lại lựa chọn khắc họa thân phận của một người nhược tiểu nhất trong số những người nhược tiểu, người thậm chí còn chẳng có nhiều cơ hội để hiện diện trên sân khấu để đón nhận tiếng vỗ tay hoan hô của khán giả mà tạm quên đi cái vất vả, cơ hàn của kiếp “xướng ca vô loài”. Nhân vật Trăm Ngàn của Ngô Tú Ngân đã theo gánh hát của ông Bình từ lúc còn non nớt, giờ đã gần năm mươi tuổi nhưng vẫn chỉ làm chân chạy vặt, lo cơm nước hậu cần cho cả đoàn, thi thoảng được đóng vai lính quèn hay những kẻ tàn tật, xấu xí, dù giọng hát của Trăm Ngàn “rất có hồn” và còn “mùi mẫn” hơn cả giọng kép Tân. Như ông Bình giải thích, Trăm Ngàn không có diện mạo đẹp để lên sân khấu. Nhưng đó chưa phải là tất cả bi kịch của Trăm Ngàn. Ngay từ lúc mới chào đời, nhân vật này đã được định sẵn số mệnh của một subaltern: là con ngoài giá thú của một công tử nhà giàu, bị chính bà ngoại tách khỏi vòng tay của mẹ ruột từ lúc còn đỏ hỏn để mang trả nhà nội, bị bà nội và cha ruột ruồng rẫy, lớn lên nhờ sự bao bọc của một đầy tớ ở nhà bà nội và tiếp tục trở thành đầy tớ cho nhà bà nội, bị tước đoạt số tiền đã vất vả dành dụm để cưới vợ và bị cướp luôn cả cô gái mà mình đã yêu thương suốt từ thuở ấu thơ, phải bỏ đi biệt xứ nếu không muốn bị cảnh sát bắt vì dám đánh em trai cùng cha khác mẹ (dù chính người này đã cướp hết số tiền cưới vợ và cướp cả người yêu của Trăm Ngàn), cuối cùng đành đi theo gánh hát vì một mục đích duy nhất – tìm mẹ ruột. Dù Ngô Tú Ngân đã dày công thiết lập một khung cảnh nửa thực nửa ảo khi Trăm Ngàn nhìn thấy mẹ ở bến cuối của cuộc đời, nhưng khoảnh khắc ấy lại khắc họa sâu hơn nỗi khốn khổ của nhân vật này vì đến tận lúc nhắm mắt xuôi tay vì căn bệnh ung thư, Trăm Ngàn mới thấy mẹ ruột - người đã sang thế giới bên kia từ mấy năm trước. Lời thoại của Trăm Ngàn thậm chí còn không được hiển lộ trực tiếp qua cách trần thuật xóa nhòa ranh giới giữa giọng nhân vật và giọng của người kể chuyện của Ngô Tú Ngân. Không có tiếng nói rõ ràng, không có diện mạo ưa nhìn, nghèo hèn, bị chối bỏ, bị tước đoạt công sức và cho đến cuối đời vẫn phải chịu sự giày vò của bệnh tật quái ác, Trăm Ngàn là hiện thân đầy đủ nhất cho sự bé mọn, nhược tiểu, yếu thế của một subaltern.
“Liệu người subaltern có thể lên tiếng hay không?” (Can the Subaltern Speak?) là vấn đề mà nhà nghiên cứu Gayatri C. Spivak đặt ra ngay từ nhan đề của bài tiểu luận in trong cuốn Marxism and the Interpretation of Culture (Macmillan Education, 1988). Spivak cho rằng người subaltern không thể lên tiếng bởi họ không có cơ hội để lên tiếng, và ngay cả khi họ được phép lên tiếng thì luôn có một cá nhân toàn năng nào đó lên tiếng thay cho họ vì người subaltern được cho là không biết cách nói chuyện và thể hiện bản thân. Lắng nghe âm thanh của sự im lặng và cả những tiếng nói yếu ớt, bị ngó lơ, bị chìm khuất, bị mờ nhòe của người subaltern, do vậy, là một việc làm cần thiết để quan sát và thấu hiểu hơn về cõi nhân sinh. “Trăm Ngàn” và các truyện ngắn vừa đoạt giải khác của Báo Văn nghệ chính là những nỗ lực lắng nghe như thế.
[1] Ranajit Guha (1996), “The Small Voice of History”, trong Shahid Amin & Dipesh Chakrabarty (chủ biên), Subaltern Studies IX: Writings on South Asian History and Society, Delhi: Oxford University Press.
[2] Phạm Phương Chi (2024), “Tiếng nói của subaltern, việc viết sử từ dưới lên ở Ấn Độ và vai trò của phê bình văn học”, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, số 8, tr.105.