Diễn đàn lý luận

Kí ức Việt Nam trong thơ Doãn Linh

Nguyễn Thu Hiên
Lý luận phê bình 08:00 | 16/09/2025
Baovannghe.vn - Trong giới văn học nghệ thuật Đài Loan, Trung Quốc, Doãn Linh được biết đến như một nhà thơ được sinh ra và lớn lên ở Việt Nam. Các sáng tác làm nên tên tuổi của Doãn Linh ở Đài Loan là những tác phẩm thơ viết về chiến tranh Việt Nam.
aa

Trong sáng tác của người Việt Nam và người gốc Việt Nam ở nước ngoài, số lượng các nhà văn viết bằng tiếng Hoa cũng như số lượng tác phẩm được sáng tác bằng tiếng Hoa vô cùng ít ỏi. Trường hợp như Doãn Linh hoàn toàn không nhiều.

1. Đôi nét về sự nghiệp văn học của Doãn Linh

Kí ức Việt Nam trong thơ Doãn Linh
Nhà thơ Doãn Linh

Trên website Mạng văn học Đài Loan của Bảo tàng văn học Đài Loan, Doãn Linh được giới thiệu là một nhà thơ sinh năm 1945, sinh ra và lớn lên ở Mỹ Tho (Việt Nam), quê gốc ở Đại Phố, Quảng Đông (Trung Quốc). Bà tên thật là Hà Doãn Linh, cũng có tên gọi khác là Hà Kim Lan, ngoài bút danh Doãn Linh, bà còn được biết đến với những bút danh khác như: Doãn Doãn, A Dã, Khả Nhân, Từ Trác Phi. Bên cạnh vai trò là một nhà thơ, bà còn là một nhà nghiên cứu. Hiện bà đang là giáo sư của Khoa Trung văn và Khoa Pháp văn - Đại học Đạm Giang; đồng thời là giáo sư kiêm nhiệm tại Khoa Pháp văn - Đại học Phụ Nhân và Khoa Xã hội học - Đại học Đông Ngô. Giới thiệu về phong cách văn chương của Doãn Linh, bà được nhận định là nhà văn viết trên nhiều thể loại như tiểu luận, sáng tác thơ và văn học thiếu nhi. Công trình Xã hội học văn học của bà đặc biệt được giới học thuật Đài Loan đánh giá cao. Bà từng được nhận Giải thưởng văn nghệ Trung Hưng và Giải thưởng sáng tác thơ của Hội Nghệ thuật thơ ca Trung Quốc.

Từ nhỏ, Doãn Linh đã yêu thích văn chương và cầm bút từ khi mới 16 tuổi. Trong cộng đồng văn hóa Hoa ngữ ở Việt Nam những năm 1960, Doãn Linh đã là cây bút có những sáng tác của riêng mình, chủ yếu là tản văn. Tháng 9 năm 1969, Doãn Linh đến Đài Bắc học thạc sĩ ở Đại học Đài Loan sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn học tại Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn. Năm 1979, sau khi học xong thạc sĩ và tiến sĩ văn học ở Đài Loan, Doãn Linh lại tiếp tục sang Pháp học bằng tiến sĩ thứ hai về Lý luận văn học phương Tây tại Đại học Paris VII. Sau khi chiến tranh ở Việt Nam kết thúc, suốt một thời gian dài Doãn Linh không cầm bút sáng tác nữa. Chuyến về thăm nhà vào năm 1973 là lần cuối cùng bà được gặp mặt cha mẹ mình. Do ảnh hưởng bởi chiến loạn, cha mẹ của Doãn Linh đã qua đời ở trong nước mà bà không được gặp mặt lần cuối. Những chấn thương và mất mát từ chiến tranh đã khiến Doãn Linh suốt nhiều năm từ chối chữ nghĩa. Mãi đến năm 1986, Doãn Linh mới bắt đầu sáng tác trở lại như một cách chữa lành cho bản thân. Từ năm 1986 đến nay, Doãn Linh đã xuất bản một số tập thơ như: Khi đêm nở rộ như hoa, Một đôi bồ câu trắng bay qua, Ngựa gỗ đu quay, Tóc hay là dòng sông phản bội, Câu chuyện câu chuyện…, trong đó Ngựa gỗ đu quay là tập thơ dành cho thiếu nhi.

Năm 2019, dịch giả Trúc Ty đã lựa chọn một số tác phẩm thơ của Doãn Linh để dịch và giới thiệu tới độc giả Việt Nam. Tuy tập thơ này được lấy tên là Khi đêm nở rộ như hoa, nhưng các bài thơ trong đó đều được lựa chọn từ nhiều tập thơ khác nhau mà Doãn Linh đã xuất bản ở Đài Loan trước đó. Tập thơ này được Nhà xuất bản Văn học ấn hành.

Doãn Linh không có một tập thơ nào viết riêng về Việt Nam, nhưng tập thơ nào của bà cũng dành trong đó những bài thơ nhắc đến Việt Nam. Việt Nam trong thơ của Doãn Linh là ký ức đau thương, mất mát tột độ của những năm tháng chiến tranh. Bà nhiều lần nói rằng, chiến tranh đã biến bà thành một người không còn gia đình, không còn nhà để trở về. Việt Nam trong thơ của bà còn là ký ức về quê hương ở những tháng ngày tươi đẹp của quá vãng, hình ảnh ấy được tái hiện bằng nỗi nhớ và nỗi xót xa khi đối mặt với đời thực nhiều đổi thay.

2. Ký ức về Việt Nam trong thơ Doãn Linh

Trong truyền thống văn học của Đài Loan, không có nhiều các tác phẩm viết về đề tài chiến tranh; nhà văn, nhà thơ nữ viết về chiến tranh càng ít, vì thế những bài thơ về chiến tranh Việt Nam của Doãn Linh khi xuất hiện trên văn đàn Đài Loan càng đặc biệt được chú ý. Tập thơ nào của Doãn Linh cũng có những bài thơ viết về hiện thực tàn khốc của cuộc chiến tranh đã qua. Nhà thơ Đài Loan là Á Huyền đã nhận định: “Thơ vốn dĩ là sự thể hiện tập trung của đời sống tâm hồn, sở dĩ thơ viết về chiến tranh của Doãn Linh cảm động là bởi những trải nghiệm đau đớn của chính bà, những thứ (nỗi đau - NTH) vốn dĩ vượt khỏi khả năng biểu đạt của ngôn ngữ lại được bà ngưng đọng lại trong ngôn ngữ. Bởi vậy, trong các sáng tác thơ của bà, các tác phẩm viết về chiến tranh là đặc biệt nhất, cảm động nhất.”(1)

Chiến tranh trong thơ của Doãn Linh trước tiên là những cảnh đạn bom, máu chảy nhuốm lên khắp các thân phận người trên từng địa danh của mảnh đất hình chữ S. Trong nhiều bài thơ của mình, Doãn Linh đều dùng hình ảnh “mảnh đất hình chữ S” để nói về Việt Nam. Trong Kể chuyện xưa, Doãn Linh đã viết về khung cảnh chiến dịch Mậu Thân tại Huế năm 1968 bằng những miêu tả tang thương bao phủ khắp nơi: Sông Hương đẫm tràn hương máu/ Từng giọt tí tách tưới khắp cố đô Huế(2). Người đọc cũng bắt gặp Hà Nội của những năm 1972 tan hoang trong Cơn mưa màu da cam vẫn bay trên không trung. 12 ngày đêm Hà Nội chìm trong cảnh B52 cháy sáng bầu trời như khúc nhạc gọi tên các linh hồn, những cái chết được chờ điểm tên sẵn, để rồi những buổi sớm tỉnh dậy, Hà Nội lại tan hoang, đổ nát, hủy hoại tới không còn nguyên dạng: Trên trời xanh/ B52 cả ngày ngân nga khúc giục hồn màu trắng/ Hà Nội không kịp thay quần áo ngủ/ Đã lập tức chìm vào giấc mơ được điểm trang bằng những tang thương/ Khi tỉnh dậy/ Phản chiếu trong gương là khuôn mặt không cách nào cứu vãn nổi.

Trong tập Tóc hay là dòng sông phản, Doãn Linh có một chùm thơ sáu bài lấy tên là Hồi tưởng về bông hồng đã mất trong lửa. Việt Nam được bà ví như là hoa hồng, một bông hoa hồng đã bị tàn phá bởi lửa đạn chiến tranh. Chùm thơ gồm sáu bài: Dưới bầu trời sao - Mỹ Tho, Điệu Tango đã mất - Sài Gòn, Dung nhan - An Lộc, Đi vào - Đại lộ kinh hoàng, Phố núi mộng mơ - Đà Lạt, Thanh âm duy nhất - Huế. Những bài thơ này được Doãn Linh viết để kể lại những cảm nhận của bà khi quay về thăm quê hương vào năm 1973. Trong số đó, có những bài thơ viết về cảnh tượng chiến tranh gắn với các địa danh cụ thể. Những mất mát, đau đớn được tái hiện không nơi nào giống nơi nào. Chỉ có điều trong những tác phẩm của Doãn Linh, những gì bi thảm nhất lại được viết lại bằng những hình ảnh hoa mỹ, lãng mạn nhất. Trong cách biểu đạt tương phản ấy, nỗi đau như ngấm ngược vào trong và cả sự phản kháng trước chiến tranh cũng trở nên mạnh mẽ một cách sắc bén.

Doãn Linh còn dùng thơ của mình đối thoại trực diện với những diễn ngôn mà nước Mỹ đã tái hiện về chiến tranh Việt Nam trong điện ảnh. Hơn một lần trong thơ của mình, Doãn Linh nhắc về bộ phim Platoon của đạo diễn Oliver Stone đã từng được trao giải thưởng Oscar dành cho phim hay nhất và đạo diễn xuất sắc nhất vào năm 1987. Bộ phim này được dịch sang tiếng Việt là Trung đội, được dịch sang tiếng Hoa là Tiến về Campuchia. Trong bài thơ Sau khi xem xong “Tiến về Campuchia”, Doãn Linh đã viết: Các anh xuyên qua cơn mưa điên cuồng/ Tấu lên bản nhạc Oscar/ Còn chúng tôi/ Mưa trong cơ thể chúng tôi/ Từ lâu đã quyện với thời gian và không gian/ Trong cơn phong thấp. Những câu thơ đầy tính giễu nhại của Doãn Linh như muốn nói với thế nhân rằng, chẳng bộ phim nào, kể cả những bộ phim đoạt giải Oscar, có thể nói được tận cùng nỗi đau của người Việt Nam trong chiến tranh. Nỗi đau ấy đã ăn vào xương tủy, nhức nhối giống như căn bệnh phong thấp mỗi khi trái gió trở trời, không thuốc nào chữa khỏi. Trong Kể chuyện xưa, mức độ giễu nhại của Doãn Linh đã biến thành tiếng nói tố cáo tội ác của những kẻ tìm chất liệu điện ảnh trên nỗi đau của một dân tộc: Kẻ săn hươu/ Tiến về Campuchia/ Áo giáp sắt/ Hilton/ Sài Gòn/ Thiên thời địa lợi nhân hòa/ Những bông hoa thơm có doanh thu phòng vé đẹp nhất/ Hollywood giâm cây chiết cành mãi không chán/ Năm 1968/ Mậu Thân/ Miền Nam Việt Nam(3). Từng bộ phim điện ảnh Mỹ làm về đề tài chiến tranh Việt Nam được điểm tên, những bộ phim được làm ra suy cho cùng chỉ vì mục đích lợi nhuận, không một ai trong số ấy thực sự trải qua và bước ra từ sự tàn khốc và mất mát của chiến tranh. Trong phần Hậu ký của bài thơ Máu vẫn chưa đông, Doãn Linh cũng đã đưa ra chất vấn: “Hằng năm Hollywood đều làm phim về chiến tranh Việt Nam, đa phần đều giành được vài giải thưởng lớn của Oscar hoặc Quả cầu vàng, tại sao lịch sử được viết nên bằng đau thương, máu và nước mắt chân thực của chính chúng ta lại chỉ nhận về tro tàn của những thù hận ngàn đời?” Vừa là một lời chất vấn đanh thép, nhưng cũng là một lời tự vấn xót xa. Và tinh thần ấy thấm đẫm vào hình ảnh Việt Nam thương đau, mất mát tận cùng trong thơ của Doãn Linh.

Năm 1994, Doãn Linh mới có cơ hội quay trở về Việt Nam sau 21 năm năm sống ở Đài Loan và Pháp. Như thể những vết thương trong tâm hồn đã ít nhiều được xoa dịu, Doãn Linh viết nhiều hơn về Việt Nam trong những hồi ức về quê hương gắn với tuổi thơ tươi đẹp, với tình yêu tuổi thanh xuân, với nỗi nhớ về những tháng ngày đã nằm sâu trong quá khứ. Dường như đó là cách bà tìm thấy chỗ nương thân cho tâm hồn trong một cuộc đời thực tế phiêu bạt và chẳng biết mình thuộc về đâu.

Bài thơ ghi lại cảm xúc trở về quê hương sau 21 năm lang bạt được in trong tập Một đôi bồ câu trắng bay qua với tên gọi Cỏ dại tùy ý mọc lên đã bắt đầu bằng những tự sự xót xa: Thiếu thời đi xa, nay già trở về/ Làm sao có thể coi hai nấm mồ xa lạ này/ Là hai cánh tay nuốt nước mắt vẫy chào năm ấy/ Ai đã đem những lời thủ thỉ sáng ngời đôi mắt của mẹ/ Đổi thành ba dòng chữ câm lạnh trên bia mộ kia/ Còn cả sự cương nghị và nhiệt tình của cha/ Sao lại chỉ còn là cái lạnh của tấm bia đá dài sáu thước/ Một đời xương máu chỉ còn lại nửa vầng mặt trời chiều/ Đôi mắt mong đợi hai mươi mốt năm/ Chỉ còn lại nước mắt để lau/ Mà sinh tử vẫn đôi nơi xa xôi mịt mờ/ Xa xôi mịt mờ. Năm 1973 là lần trở về thăm quê gần nhất trước đó của bà. Những biến thiên của số phận đã khiến cho lần trở về tiếp theo vào năm 1994, bà không còn cha mẹ, không còn gia đình, không còn cả căn nhà tuổi thơ đã từng sinh sống. Cha mẹ và gia đình chỉ còn lại những nấm mồ lạnh lẽo trong thực tại và nỗi nhớ trong tâm hồn.

Tựa như kiếp trước kể về cảm xúc của một lần đi ngang qua nhà cũ trong chuyến trở về thăm quê hương. Khi ấy, căn nhà đã có người khác ở. Nơi đã từng là ngôi nhà bà sinh ra và lớn lên, giờ đây lại là một nơi hoàn toàn xa lạ. Ký ức về một tuổi thơ tươi đẹp bỗng trở về và quyện hòa vào nỗi buồn của thực tại: Nơi đó đã từng là nhà/ Một pháo đài nho nhỏ/ Có hào nước bao quanh/…/ Tuổi thơ là con diều giấy căng lên trong gió mưa/ Vừa đẹp vừa bi thương/ Trên bầu trời của pháo đài/ Vui vẻ mà thận trọng bay lượn.

Tuổi thơ như một miền tiên cảnh của Doãn Linh được ghi lại trong bài thơ Dưới bầu trời sao - Mỹ Tho. Bài thơ được viết ra bằng giọng kể của người mẹ với con gái “Thật đó, con gái à!” để kể về quê hương Mỹ Tho là một thành phố nhỏ xinh đẹp, nơi ông ngoại con thường kể chuyện ở ban công, mẹ lắng nghe say mê dưới bầu trời sao rồi ngủ thiếp đi lúc nào chẳng hay, đó là một tuổi thơ như trong thiên đường. Nơi ấy Sông Mê Kông là chiếc giường di động êm đềm/ Trăng sao trên trời và trăng sao giữa sông chăm chú nhìn nhau/ Đời đời kiếp kiếp nói với nhau lời ngọt ngào không thanh âm/ Trên chiếc thuyền nhỏ chúng tôi/ Ngồi/ Tựa/ Nằm/ Cùng sóng nước trôi về miền tiên cảnh.

Trong nỗi nhớ Việt Nam của Doãn Linh, còn có những ký ức lãng mạn của tình yêu thời tuổi trẻ. Trong bài Thanh âm duy nhất - Huế, đêm trăng 16 trên dòng sông Hương đã trở thành một ký ức mộng mơ không thể nào quên: Làm sao em quên được/ Đêm hôm ấy/ Khi sông Hương vẫn ngát hương/ Vầng trăng mười sáu/ Dần dần nhô lên từ phương Đông/ Chiếc thuyền nhỏ của chúng ta/ Trôi trong tiếng nước chảy dịu dàng/ Tiếng nói dịu dàng của anh/ Ôm chặt em/ Ôm em vào trong đêm mộng mơ. Trong Phố núi mộng mơ - Đà Lạt, bên cạnh một khung cảnh thành phố hoa hồng xinh đẹp, người đọc cũng thấy nhà thơ gửi gắm trong ấy nỗi nhớ dành cho tình yêu tuổi trẻ xa xôi: Trong tháng Ba/ Người đem mùa xuân/ Lay động trên mặt hồ Xuân Hương/ Em đạp thuyền nước/ Nhờ ý xuân chớm lạnh/ Đem nỗi nhớ gửi về anh nơi Sài Gòn.

Vì có nhiều năm sinh sống và học tập ở Sài Gòn nên trong thơ của Doãn Linh, đây là thành phố được nhắc đến nhiều nhất. Bởi vậy, mỗi khi nhớ về Việt Nam, Sài Gòn luôn là cái tên xuất hiện đầu tiên trong trí nhớ của bà. Trong Tìm kiếm thành phố có tên là Sài Gòn, Doãn Linh viết: Hai mươi lăm năm là một dòng sông/ Ta với mái tóc như sương phủ đầy bụi trần/ Khi tương phùng người có còn nhận ra ta không. Trong một bài thơ khác có tên Đi trên đường Chợ Lớn Sài Gòn năm 2009, nỗi nhớ quê hương gắn với hồi ức về những quá vãng xa xôi đã biến thành nỗi cô độc ngay trên mảnh đất mình từng lớn lên: Đi trên đường Chợ Lớn Sài Gòn/ Người có thể gặm nhấm nỗi cô đơn/ Vẫn chỉ là không biết đây là cố hương hay tha hương/ Đó mới là mùi vị của nỗi cô đơn thực sự.

Doãn Linh nổi tiếng với thân phận lưu lạc và cuộc đời lang bạt, bà coi việc di chuyển từ không gian văn hóa này sang không gian văn hóa khác là một định mệnh cuộc đời mình. Năm nào bà cũng đi du lịch, đến nhiều quốc gia, nhiều vùng đất khác nhau. Nhưng câu hỏi về căn tính, về nơi mình quy thuộc là cảm thức triết học đặt ra nhiều nhất trong thơ của bà. Thơ của Doãn Linh hơn một lần băn khoăn về căn tính thân phận và cũng hơn một lần tìm cách đưa ra lựa chọn nơi mình thuộc về. Điều thú vị là, trong tất cả những lần như thế, Doãn Linh đều mượn câu chuyện Việt Nam để biểu đạt cảm thức ấy.

Bài thơ Bài học Ngữ văn Việt Nam in trong tập Tóc hay là dòng sông phản bội bắt đầu từ việc học những chữ cái của tiếng Việt: AĂÂBCDĐEÊ……/ Hai mươi chín chữ cái, xin mời đọc theo. Từ những chữ cái ấy, người học ghép được ra câu Tôi là người Việt Nam/ Tôi là người Đài Loan/ Tôi là người Trung Quốc/ Tôi là người Pháp/ Tôi là người Mỹ. Mặc dù chính tác giả cũng bày tỏ trong thơ rằng Tôi là người nước nào/ Kỳ thực không quan trọng vì trong thế giới này, nhờ sức mạnh của mạng internet mà khoảng cách không gian ngày càng gần nhau hơn, khoảng cách của các dân tộc, các quốc gia cũng ngày càng gần nhau hơn, chỉ có những khoảng cách tồn tại phía sau hệ thống mạng ấy mới là xa xôi mà thôi. Bởi vậy, xin hãy đọc theo AĂÂBCDĐEÊ……/ Hãy dựa vào cách ghép âm mà bạn yêu thích/ Để đến với vương quốc mà bạn muốn thuộc về. Doãn Linh không nói mình chọn thuộc về Việt Nam, nhưng những chữ cái đặc biệt như Ă, Â, Đ, Ê chắc chắn chỉ thuộc về nơi mà bà từng được sinh ra và lớn lên. Ghép thành tên đất nước mình muốn thuộc về bằng những chữ cái riêng có ấy, tự những câu thơ của Doãn Linh đã là câu trả lời.

Năm 2008, Doãn Linh lấy hai chữ tiếng Việt làm tiêu đề bài thơ của mình BÚN TA. “Trong bầu trời Hà Nội không nắng, không râm, không mặt trời, không mưa”, nhà thơ bắt gặp một nhà hàng có tên là Bún ta, bà thấy ở đó một cách giải thích khác cho cái gọi là tri ngộ, tri âm, tri tâm, tri kỷ giữa “ta” và “mình”. Trong thơ Doãn Linh, thường xuyên xuất hiện sự đối thoại giữa ngôi thứ nhất “ta” và ngôi thứ hai “mình”. Bà nói, đó đôi khi là sự đối thoại với chính mình. Trong bài thơ này, Doãn Linh dùng chính triết học của tiếng Việt để biểu đạt về thân phận của bà. Và từ phương diện ấy, người đọc nhìn ra một lựa chọn về căn tính văn hóa của nhà thơ, một căn tính vốn dĩ ở đó đã lấy thân phận lang thang, nổi trôi làm bản mệnh. BÚN là không phải mì gạo, không phải miến, không phải phở, không phải mì, không phải phấn hoa, không phải phấn bột/ Từng sợi từng sợi trắng quấn quýt khó rời/ Còn TA ở đây cũng chỉ là hai con người ta giữa mình và ta/ Không nước nhà, không quê hương, không họ hàng, không dòng dõi, không ngôn ngữ, không tư duy/ Cảnh ngộ bế tắc không cách nào thoát ra.

Nỗi nhớ quê hương và rộng hơn là những hoài niệm về Việt Nam của những năm tháng xa vắng đã tạo ra một Việt Nam khác êm đềm, tươi đẹp, lãng mạn bên cạnh một Việt Nam thương đau, mất mát, điêu tàn bởi những năm tháng chiến tranh trong thơ của Doãn Linh. Nỗi nhớ và hoài niệm về Việt Nam đôi khi không chỉ nằm trong những bài thơ hồi ức về tuổi thơ được bảo bọc, về tuổi trẻ lãng mạn mà nó còn nằm sâu lắng trong những bài thơ được suy tư bằng chất liệu văn hóa Việt Nam.

Nhờ những sáng tác thơ của Doãn Linh về Việt Nam, độc giả Hoa ngữ đã được biết nhiều hơn về văn hóa, lịch sử và tâm hồn của người Việt Nam. Dù là một Việt Nam đau thương, mất mát trong chiến tranh tàn khốc hay một Việt Nam êm đềm, tươi đẹp trong ký ức về quê hương, về tuổi thơ và tuổi trẻ, Doãn Linh cũng đã lay động được tâm hồn của rất nhiều bạn đọc. “Những khắc họa của Doãn Linh về chiến tranh Việt Nam, về những người dân gặp nạn và đời sống của những người dân bình thường trong chiến tranh, bất luận là chất hay lượng, đều đạt được thành tựu rất cao, đây là điều xứng đáng được khẳng định.”(4)

--------------

(1) Á Huyền (1994), Tựa - Khi đêm nở rộ như hoa, https://mypaper.pchome.com.tw/hkl1945/post/1321432178

(2) Các trích dẫn thơ trong bài đều lấy từ địa chỉ:

https://mypaper.pchome.com.tw/ hkl1945;

https://www.fengtipoeticclub.com/02Fengti/hkl/hkl-menu.html

(3) Các chữ in nghiêng trong trích dẫn là tên các bộ phim Mĩ về chiến tranh Việt Nam

(4) Hồng Thục Linh (2010), Việt Nam, Đài Loan, Pháp - Du hành cuộc đời, sáng tác văn học và kiếm tìm chủ thể của Doãn Linh, Tập san Nghiên cứu văn học Đài Loan số 6, trang 168.

Bộ GD&ĐT: Có thể điều chỉnh Thông tư 29

Bộ GD&ĐT: Có thể điều chỉnh Thông tư 29

Baovannghe.vn - Bộ GD&ĐT vừa có văn bản gửi một số sở GD&ĐT lấy ý kiến góp ý dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 29/2024/TT-BGDĐT ngày 30/12/2024 của Bộ trưởng Bộ GDĐT (Thông tư 29) quy định về dạy thêm, học thêm.
Dàn nhạc Giao hưởng Đức biểu diễn tại Việt Nam nhân 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao

Dàn nhạc Giao hưởng Đức biểu diễn tại Việt Nam nhân 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao

Baovannghe.vn - Hướng tới kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức (1975 – 2025), vào hai đêm 20 và 21/12, tại Nhà hát Hồ Gươm, Hội Nhạc cổ điển Việt Nam tổ chức hòa nhạc mang tên Tấu khúc lưỡng cực – A Rhapsody of Two Worlds.
Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ
Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Baovannghe.vn - Ngày 4/12, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức công bố 72 thành phố của 46 quốc gia, trong đó có Thủ đô Hà Nội của Việt Nam được công nhận là thành viên Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu của UNESCO.
Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Baovannghe.vn - Trong phiên làm việc ngày 4/12, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi).