Sự kiện & Bình luận

Phận làm nhà thơ và sứ mệnh của thi ca

Nguyễn Lâm Cẩn
Tiếng nói nhà văn 08:00 | 03/12/2025
ovannghe.vn - Con người ta sinh ra kẻ chọn nghề làm ruộng, người chọn nghề buôn bán, người chọn nghề gõ búa vào kiếp luân hồi.
aa

Còn nhà thơ, họ chọn một nghiệp không có trong danh mục đăng ký kinh doanh, không có lương tháng cố định và chẳng có bảo hiểm xã hội nào bảo hộ. Đó là cái nghiệp ôm ấp con chữ, bầu bạn với những khoảng lặng vô hình của đời sống.

Phận làm nhà thơ và sứ mệnh của thi ca
Nhà thơ Nguyễn Lâm Cẩn

Phận làm nhà thơ, trước hết là phận người lữ hành cô độc. Họ không chỉ đi bằng đôi chân trên những nẻo đường đất đá mà còn đi bằng tâm hồn qua những thung lũng cảm xúc sâu thẳm nhất. Khi mọi người say ngủ, họ thao thức. Khi mọi người ồn ào, họ lắng nghe. Họ nghe tiếng gió kể chuyện hoang sơ, nghe tiếng lá khóc thầm mùa thu, nghe cả những vết nứt vô hình trong trái tim nhân loại. Cái cô đơn của nhà thơ không phải là sự thiếu vắng con người mà là sự đầy ắp những điều không thể nói thành lời bằng ngôn ngữ thông thường. Họ mang trong mình một trái tim nhạy cảm đến mức dễ tổn thương, giống một chiếc hộp cộng hưởng mỏng manh. Một cánh hoa rụng có thể là một bi kịch, một tia nắng sớm có thể là một lời hứa vĩnh cửu. Máu và nước mắt của nhân vật trong sách hay nỗi buồn vô danh của một người xa lạ đi ngang phố đều thẩm thấu vào hồn họ rồi bật ra thành những vần thơ. Thơ ca là “cái lọc”, nơi nỗi đau được chưng cất thành cái đẹp, nơi sự tầm thường được nâng lên thành chiêm nghiệm.

Người đời thường nhìn nhà thơ bằng cặp mắt nửa thương hại, nửa ngưỡng mộ. Thương hại vì cái nghèo, cái lãng đãng, cái khác người. Ngưỡng mộ vì họ có thể chạm tay vào điều mà người thường chỉ có thể mơ hồ cảm nhận: chân lý của cảm xúc. Một bài thơ hay không chỉ là câu chữ, nó là một khoảnh khắc của linh hồn được đóng băng lại để rồi tan chảy trong lòng người đọc. Cái phận lớn nhất của nhà thơ có lẽ là phận người gieo hạt. Họ gieo những hạt giống yêu thương, đồng cảm, và khao khát tự do vào mảnh đất tâm hồn khô cằn của thế giới. Có khi hạt giống nảy mầm thành cây cổ thụ che mát, có khi nó bị gió cuốn đi và tan biến. Nhưng người làm thơ vẫn cứ viết, không phải vì mong được nổi tiếng hay giàu sang mà vì đó là hơi thở tự nhiên của sự sống.

Sống trong thời đại vội vã này, thơ ca có vẻ như là một thứ xa xỉ. Người ta cần tốc độ, hiệu quả, sự rõ ràng. Thơ ca thì chậm rãi, mơ hồ, và đòi hỏi sự tĩnh lặng. Nhưng chính lúc vội vã nhất, con người ta lại càng cần thơ. Cần một lời nhắc nhở nhẹ nhàng rằng: cuộc đời không chỉ là những con số, những dự án mà còn là những rung động tinh khôi, vẹn nguyên. Nhà thơ sống cuộc đời thầm lặng mang sứ mệnh lớn lao, dùng ngòi bút làm ngọn hải đăng soi rọi vào những ngóc ngách khuất lấp của kiếp người.

Thơ ca, trong dòng chảy cuộn xiết của đời sống xã hội, chưa bao giờ là một thứ trang sức hờ hững. Nó là mạch nguồn cảm xúc, là ngọn đuốc của lương tri và quan trọng hơn hết nó là một tiếng nói can dự vào đời sống. Sức mạnh của thơ không nằm ở sự phô trương mà ở khả năng chạm đến những tầng sâu kín nhất của tâm hồn, từ đó tạo ra sự rung động đồng điệu, một phản ứng dây chuyền có khả năng thay đổi nhận thức và thị hiếu cộng đồng. Một bài thơ hay không chỉ dừng lại ở việc miêu tả hoa lá hay nỗi buồn cá nhân, nó phải trở thành tiếng chuông báo thức, vang vọng những vấn đề cốt lõi của thời đại. Từ những lời ca ngợi đấu tranh và tự do, những tiếng than về số phận con người trong chiến tranh đến sự phê phán tinh tế những thói quen xấu… thơ tham gia kiến tạo nên ý thức xã hội. Nó cung cấp cho người đọc một ngôn ngữ để gọi tên nỗi đau chung, niềm hy vọng chung. Nó giúp con người ngừng thờ ơ, buộc họ phải nhìn nhận và đối diện với hiện thực bằng một cái nhìn nhân tính. Thơ thay đổi nhận thức không phải bằng luận lý khô khan mà bằng cách kích hoạt sự đồng cảm. Khi đối diện với những vấn đề xã hội như bất công, chiến tranh hay sự phân biệt đối xử, con người thường phản ứng bằng lý trí hoặc sự phòng thủ nhưng thơ ca, thông qua hình ảnh, nhịp điệu và cảm xúc cô đọng, có thể vượt qua rào cản lý trí đó. Những vấn đề phức tạp, vô hình hoặc bị che giấu thường thiếu một ngôn ngữ rõ ràng để diễn tả. Thơ, với khả năng chưng cất ý nghĩa, cung cấp một hình ảnh ẩn dụ mạnh mẽ hoặc một cụm từ kinh điển để đại diện cho toàn bộ vấn đề. Ví dụ: một bài thơ về nạn đói có thể không liệt kê số liệu thống kê nhưng lại vẽ ra hình ảnh một “đôi mắt trẻ thơ ám ảnh”, khiến người đọc cảm thấy nỗi đau trực tiếp, từ đó chuyển từ thái độ thờ ơ sang hành động thực tế. Bằng cách tập trung vào trải nghiệm của một cá nhân nhỏ bé trong bi kịch lớn của xã hội, thơ buộc người đọc phải đặt mình vào vị trí của người khác. Sự rung động từ trái tim là chất xúc tác mạnh nhất, chuyển đổi sự thấu hiểu từ cấp độ trừu tượng sang cấp độ cá nhân cụ thể, từ đó kiến tạo nên trách nhiệm đạo đức và xã hội. Khi một cộng đồng học cách thưởng thức những tác phẩm thơ ca sâu sắc, có tính “can dự” họ không chỉ nâng cao gu thẩm mỹ mà còn nâng cao thị hiếu đạo đức của mình. Họ bắt đầu mong muốn và ủng hộ những giá trị nhân văn mà thơ ca truyền tải, từ đó ảnh hưởng đến văn hóa tiêu dùng, chính trị và cách hành xử cá nhân trong cộng đồng. Sự can thiệp của thơ ca vào đời sống là một quá trình thẩm thấu chậm rãi nhưng kiên cố. Nó gieo vào lòng người những hạt mầm về cái đẹp, cái thiện, làm phong phú hóa đời sống tinh thần, khiến con người trở nên nhạy cảm hơn với nghệ thuật, với ngôn từ và với chính đồng loại.

Tuy nhiên sức sống vĩnh cửu của thơ ca không thể dựa vào những công thức cũ đã mòn. Người thi sĩ đích thực phải gánh vác sứ mệnh khó khăn nhất là tìm tòi và đổi mới. Đổi mới trong thơ không phải là cố gắng tạo ra sự kỳ quặc, xa lạ mà là tìm ra những kết nối mới giữa các ý niệm, khám phá những tiềm năng chưa từng được khai thác của ngôn ngữ và kiến tạo những hình tượng lạ lẫm nhưng lại chính xác được tiềm thức chấp nhận. Đổi mới tự thân (hay đổi mới nội tại) xuất phát từ nhu cầu tự thân của thơ và sự bức thiết của người nghệ sĩ muốn phá vỡ chiếc lồng ngôn ngữ mà họ đang bị giam cầm. Đây là một cuộc cách mạng cá nhân, nơi thi sĩ không hài lòng với những gì đã có và tự mình đẩy ngôn ngữ, hình thức và tư tưởng đi xa hơn. Giao lưu văn hóa vùng miền đóng vai trò là chất xúc tác mạnh mẽ, đưa những luồng gió mới từ bên ngoài vào làm sống lại truyền thống thơ ca bản địa. Xâm nhập quốc tế có vai trò thúc đẩy thơ ca đổi mới. Sự “xâm nhập” này không phải là sao chép, bắt chước, mà là sự tiếp thu có chọn lọc các trường phái thơ ca lớn của thế giới, là quá trình “Việt hóa” các kỹ thuật nước ngoài, mượn khung lý thuyết để giải quyết các vấn đề và cảm xúc mang đậm bản sắc dân tộc. Điển hình là phong trào Thơ Mới chịu ảnh hưởng sâu sắc từ thơ ca lãng mạn Pháp được phát triển trên nền thơ phương Đông. Các nhà thơ mới đã cho ta một bài học mỹ mãn về đổi mới và làm thay đổi diện mạo thi ca thời đại. Đổi mới còn đến từ việc nhà thơ quay về với cội nguồn văn hóa, tận dụng sự giàu có của ngôn ngữ địa phương, ca dao, tục ngữ hay nhịp điệu dân gian. Việc đưa các yếu tố văn hóa vùng miền (như giọng điệu miền Nam, chất liệu Tây Nguyên hay sự hóm hỉnh của vùng Bắc Bộ) vào thơ không chỉ làm phong phú ngôn ngữ thơ mà còn mở rộng phạm vi cảm thụ và thị hiếu của độc giả cả nước.

Mỗi lần một tác phẩm thơ ca thực sự đột phá xuất hiện, nó không chỉ là một cột mốc cá nhân của người làm thơ mà còn là một cú hích vào thị hiếu độc giả. Ban đầu, sự đổi mới có thể gây ra sự bỡ ngỡ, thậm chí là phản ứng từ chối, bởi độc giả luôn có xu hướng “an toàn” trong vùng thoải mái của những gì họ đã quen thuộc. Nhưng chính những tác phẩm tiên phong, sau một thời gian sàng lọc và thẩm thấu sẽ mở rộng giới hạn của cái đẹp trong mắt công chúng. Nó giáo dục độc giả rằng thơ ca không chỉ có một khuôn mẫu mà có thể khoác lên mình muôn vàn hình hài. Người đọc, nhờ tiếp xúc với sự táo bạo và sâu sắc của những thi phẩm mới sẽ nâng cao tiêu chuẩn thưởng thức của mình. Họ sẽ không còn dễ dàng thỏa mãn với sự “sáo rỗng” mà bắt đầu tìm kiếm sự chân thực, chiều sâu tư tưởng và tính độc đáo trong từng câu chữ. Sự đổi mới của thơ ca là một hành trình hai chiều: Người làm thơ phải dũng cảm dấn thân vào những miền đất ngôn từ chưa ai đặt chân tới và độc giả, bằng sự cởi mở của mình phải sẵn sàng đi cùng họ, từ đó cùng nhau tạo nên một nền văn học sống động và không ngừng phát triển.

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn
Mâm trên mâm dưới - Truyện ngắn của Trần Quốc Hoàn

Mâm trên mâm dưới - Truyện ngắn của Trần Quốc Hoàn

Baovannghe.vn - Dòng họ Vũ quyết xây lại nhà thờ. Nghe đâu chi phí gần hai chục tỉ, nhất định phải hơn đứt cái nhà thờ mười bốn tỉ rưỡi mới khánh thành của họ Phan. Cả làng xôn xao. Người mừng, người lo. Mừng thì ít mà lo thì nhiều.
Nguyễn Du và tiếng Nghệ

Nguyễn Du và tiếng Nghệ

Baovannghe.vn - Xứ Nghệ là tên gọi quen thuộc chỉ vùng đất thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay. Cách gọi này chắc có từ khi cả vùng đất đều thuộc trấn Nghệ An, và sau năm 1831, khi đã có tỉnh Hà Tĩnh thì vẫn được dùng cho đến ngày nay.
Xuyên đêm chở sách mới về vùng lũ

Xuyên đêm chở sách mới về vùng lũ

Baovannghe.vn - Khi mặt trời còn chưa ló rạng sau những ngôi nhà đổ nát bởi trận lũ lịch sử, chuyến xe chở 400 thùng sách giáo khoa mới của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam (NXBGDVN) đã vượt hàng trăm cây số, xuyên đêm để kịp về với học sinh xã Hòa Thịnh (tỉnh Đắk Lắk).
Thông cáo báo chí số 35 Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

Thông cáo báo chí số 35 Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

Baovannghe.vn - Thứ Năm, ngày 4/12/2025, ngày làm việc thứ 35, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV diễn ra tại Nhà Quốc hội, Thủ đô Hà Nội.