Sáng tác

Mùa đông đầu đời tuyết trắng rơi

Tùy bút Lê Ngọc Sơn
Tản văn 10:00 | 21/07/2025
Baovannghe.vn - Một ngày cuối thu đẹp trời ở Việt Nam, tôi rời quê nhà để bắt đầu hành trình du học. Khi máy bay hạ cánh xuống nước Anh, tiết trời đã chuyển lạnh.
aa

Đây là lần đầu tiên trong đời tôi thực hiện một chuyến đi xa đến vậy. Một chuyến đi để theo đuổi giấc mơ đã được nhen nhóm từ những ngày đầu bước vào giảng đường đại học.

Vừa đặt chân tới khu cư xá Omnion ở thành phố Sheffield, tôi chưa thể cảm nhận ngay nhịp sống mới. Mọi thứ còn quá lạ lẫm. Nhưng tôi vẫn nhớ như in con đường thoai thoải dốc trước cổng nhà và cơn gió lạnh đầu tiên chạm vào da thịt. Cơn gió ấy khiến chiếc áo len mỏng tôi mặc không đủ giữ ấm, và nó ùa đến vào một chiều nhập nhoạng, ngay sau chuyến bay dài.

Bốn người chúng tôi, với lỉnh kỉnh hành lí và những gương mặt phấn khích pha lẫn hồi hộp, bước vào ngôi nhà mới. Ngôi nhà ấy rồi sẽ trở thành nơi chứng kiến và lưu giữ biết bao thay đổi, bao kỉ niệm không thể nào quên của từng người. Ai trong chúng tôi cũng là lần đầu du học.

Đón chúng tôi là những người bạn Việt Nam đã sang trước và sống cùng khu nhà. Họ vui vẻ, nhiệt tình, khiến chúng tôi phần nào bớt đi cảm giác lạ lẫm nơi đất khách. Cảm nhận đầu tiên của tôi khi nhận căn phòng trên tầng bốn là… thất vọng. Phòng quá nhỏ, lại chỉ có một ô cửa sổ bé xíu. Trần thấp, nhà vệ sinh cũng nhỏ xíu, chỉ vừa đủ một người xoay trở. Trong phòng có một giường đơn, một bàn học và một chiếc lò sưởi điện đặt bên cạnh. Được cái nền nhà được trải thảm, chỉ vậy thôi. Vậy mà căn phòng nhỏ hẹp ấy rồi sẽ trở thành chốn đi về suốt một năm học xa nhà.

Mùa đông đầu đời tuyết trắng rơi
Minh họa Ngô Xuân Khôi

Sắp xếp đồ đạc xong, chúng tôi được các bạn dẫn đi mua chăn gối cùng những vật dụng thiết yếu ở siêu thị Tesco. Đường tới đó cũng không gần, nhưng vì đông người và vừa đi vừa trò chuyện rôm rả, nên cảm giác lại rất nhanh. Con đường ấy rồi sẽ trở nên vô cùng quen thuộc với bốn anh em chúng tôi, vì mỗi tuần đều đặn một, hai lần lại cùng nhau đi mua thực phẩm. Những lần tay xách nách mang, túi trĩu nặng, nhưng đổi lại là bữa cơm nóng hổi, thơm lừng với món cá hồi nấu chua do cô em gái duy nhất trong nhóm, một người vô cùng đảm đang, trổ tài.

Tôi vẫn nhớ như in hôm đó, lúc thanh toán tiền, tôi đưa tờ 50 bảng Anh, nhân viên siêu thị liền bối rối, cầm chiếc đèn tím soi kĩ từng vạch chìm để kiểm tra xem là tiền thật hay giả. Hỏi ra mới biết, ở đây ít người dùng tiền mệnh giá lớn như vậy nên họ phải cẩn trọng. Một tình huống nhỏ thôi, nhưng khiến tôi cảm nhận rõ rệt rằng mình đang bắt đầu một cuộc sống rất khác, xa lạ, bỡ ngỡ nhưng cũng đầy háo hức phía trước.

Trước ngày lên máy bay, tôi đổi được hơn nghìn bảng Anh ở phố Hà Trung, Hà Nội, toàn là những tờ 50 bảng. Mấy ngày đầu sang đây, tôi thấy mình như... giàu có, ví rủng rỉnh tiền ngoại. Nhưng cảm giác ấy chẳng kéo dài bao lâu, vì gần hết số tiền ấy đã được dùng để mua một chiếc máy tính xách tay Sony Vaio, ngay tại cửa hàng chính hãng ở trung tâm mua sắm Meadowhall.

Sau “cú chi” đầu tiên ấy, những ngày tiếp theo là chuỗi ngày ăn dè ăn sẻn suốt cả tháng trời để chờ học bổng về. Việc học ở đây vất vả hơn tôi tưởng, nên tôi cũng chẳng dám nghĩ đến chuyện đi làm thêm. Thời gian đâu mà làm! Có lẽ cũng may, vì nhờ vậy mà tôi tập trung được cho việc học một cách trọn vẹn hơn.

Tôi vẫn nhớ ngày về nước, trong tài khoản vẫn còn đâu đó vài chục triệu đồng. Tính ra, nếu không ăn chơi gì, thì khoản học bổng vừa đủ cho tất cả những chi phí cơ bản: từ tiền nhà, học phí, ăn uống cho đến đi lại. Còn bảo đi du lịch khám phá châu Âu? Điều đó quá xa xỉ với một gia đình như tôi. Bố mẹ tôi đã cố gắng hết sức để lo cho tôi chiếc máy tính xách tay, món đồ “đắt đỏ” và quan trọng nhất cho hành trình học tập nơi xứ người.

Những ngày đầu ở cư xá Omnion, thực phẩm mang từ Việt Nam sang thật sự quý giá. Đó là mì tôm, ruốc bông, hạt nêm, muối, rong biển khô, tôm khô, muối lạc, những thứ tưởng chừng giản đơn nhưng gói ghém biết bao tình thương của gia đình. Ăn dè sẻn cũng phải vài ba tháng mới hết. Đến khi cạn dần, mới thấy thấm thía: một thìa bột canh, một nhúm hạt nêm quê nhà cũng hóa ra đáng giá biết bao. Gia vị ở đây khác hẳn, nhạt và lạ lẫm. Có lần mua được một chai nước mắm Thái Lan mà vị của nó nhạt thếch. Vậy nên, có bữa phải kho thịt bằng… muối trắng, món ăn “dã chiến” mà bốn anh em vẫn nhớ mãi.

Chúng tôi, bốn người bạn cùng đợt du học, mỗi người một phòng riêng, học một ngành khác nhau. Giao nhau trong ngày chỉ có hai bữa cơm trưa và tối, nhưng chính những bữa cơm đầm ấm ấy lại là sợi dây gắn kết, xua đi phần nào nỗi cô đơn nơi đất khách. Ăn xong, ai lại về phòng nấy, vùi mình vào sách vở và deadline.

Phòng bếp là không gian sinh hoạt chung rộng rãi và ấm cúng. Có hai chiếc tủ lạnh, bàn ăn lớn, ghế sô pha, tủ bếp, lò nướng, và hai mặt kính nhìn ra sân chơi cùng con đường nhỏ phía dưới. Ngoài bốn anh em chúng tôi, tầng bốn còn có ba bạn người Việt khác (trong đó hai chị em ruột), và một bạn người London chính gốc. Những tối vui nhất là khi ba anh em làm “chuột bạch”, ngồi chuyện trò rôm rả chờ hai em gái trổ tài làm bánh kem. Chắc các em luyện tay nghề để… mai này lấy chồng, còn chúng tôi thì vô tình được “thụ hưởng”. Bao câu chuyện đông tây kim cổ được mang ra kể, làm các em “thế ấy”, “thế á” cười rúc rích suốt buổi.

Cũng chính trong căn bếp ấy, có biết bao đêm tôi mò ra lục tủ lạnh vì học khuya bụng đói cồn cào. Không có bát cơm nguội với cánh gà kho hay vài miếng xúc xích, thì cả đêm chỉ nằm trằn trọc. Đó cũng là nơi rộn ràng nhất mỗi lần tổ chức sinh nhật ai đó. Tôi vẫn nhớ sinh nhật của mình năm ấy, bao nhiêu món ngon được mọi người cùng chung tay chuẩn bị. Từ chiều đã rủ nhau đi chợ, rồi hí hửng bày biện. Hồi đó mới phát hiện ra món gà dai bán ở chợ truyền thống, vừa rẻ, vừa hợp khẩu vị. Chứ gà công nghiệp trong siêu thị thì... nhạt nhẽo, bở bùng bục, ăn chẳng vào đâu. Sau này tôi mới biết, gà dai thực ra là gà già, đã hết tuổi đẻ nên bị đem thịt. Nhưng kệ, cứ dai dai, chắc nịch là ngon, còn hơn món “gà Tây” mềm oặt, chẳng thấy thú vị gì.

Thời gian học ở bên này chỉ vỏn vẹn một năm, nên tôi gần như lao đầu vào học, học ngày học đêm. Phải hoàn thành đủ 180 tín chỉ trong vòng 12 tháng, một cuộc chạy đua đúng nghĩa. Tôi từng khủng hoảng mất gần nửa năm trời chỉ vì lịch học oái oăm: kì đầu ba môn, kì sau… chín môn cộng thêm đồ án tốt nghiệp. Đã từng xin đổi chương trình học vì không kham nổi, nhưng không được sự đồng ý từ phía quê nhà nên lại quay về khoa cũ. Bằng không, giờ có khi tôi đang lơ lửng trong ngành điều khiển hàng không vũ trụ cũng nên!

Sau cú sốc đó là những ngày dài cắm mặt trên thư viện, từ sáng sớm đến khuya. Cứ có thời gian là tôi lại lên đó. Có lẽ chỉ còn hai thời điểm về nhà: một là ăn cơm, hai là đi ngủ.

Trong thư viện, ai cũng cắm cúi học. Bầu không khí yên tĩnh và đầy tập trung khiến tôi, dù có muốn lười, cũng thấy áy náy mà phải… học tiếp. Mỗi người một góc, một máy tính, một thế giới riêng. Nhiều hôm tôi ngồi tới hai, ba giờ sáng mới trở về. Nhất là những ngày thi cuối kì, các thư viện đều kín chỗ. Trường tôi có tới bốn thư viện, nhưng IC là to đẹp nhất. Sách nào cũng có, lấy lúc nào cũng được, chỉ có điều, có đủ sức mà học hay không thôi.

Tôi vẫn nhớ khi sang Anh đã mang theo hai chục chiếc bút nước. Viết đến cạn từng chiếc. Rồi lại nhờ bạn bè sang sau mang thêm vài chục cái nữa. Mỗi lần viết hết một chiếc, tôi đều giữ lại ruột bút làm kỉ niệm, như một cách để đánh dấu từng ngày mình đã cố gắng đến thế nào. Tới lúc về nước, tôi có cả một bó ruột bút, đúng theo nghĩa đen. Và đến giờ tôi vẫn giữ bó ruột bút đó, như giữ một phần kí ức mãi không phai.

Kì hai vất vả hơn kì một rất nhiều, chủ yếu vì đồ án tốt nghiệp. Kì một tương đối nhẹ, tôi tranh thủ nghỉ lễ Giáng sinh ba tuần để bắt tay làm sớm. Rồi đến kì lễ Phục sinh lại được nghỉ thêm ba tuần, vậy là vừa khít thời gian để chạy nốt chín môn thi cuối cùng. Tôi lên kế hoạch học chi tiết đến từng giờ, phân chia từng môn sao cho khớp với lịch thi. Có lẽ chưa bao giờ tôi sống kỉ luật như vậy.

Tôi tốt nghiệp với tấm bằng xuất sắc, được nhà trường mời ở lại học tiếp lên tiến sĩ. Nhưng sau nhiều cân nhắc, tôi quyết định quay về Việt Nam. Cái lạnh ngấm vào từng kẽ tay ở xứ sương mù, cùng một vài thay đổi khác trong lòng, khiến tôi chọn một hướng đi khác, có thể bình dị hơn, nhưng là lựa chọn của chính mình.

Bốn anh em cùng sang Anh ngày ấy, giờ mỗi người một ngả. Không liên lạc thường xuyên, nhưng vẫn âm thầm quan tâm nhau, cập nhật tình hình qua Facebook. Thỉnh thoảng vẫn sắp xếp gặp nhau, để ôn chuyện cũ, để cười phá lên về những ngày từng sống cùng nhau, nấu ăn cùng nhau, thức khuya học bài, và lớn lên cùng nhau giữa xứ người.

Nếu ai đó hỏi tôi điều khác biệt rõ rệt nhất giữa Vương quốc Anh và Việt Nam, tôi sẽ không ngần ngại trả lời: cái lạnh và tuyết.

Tôi vẫn nhớ lần đầu tiên thấy tuyết rơi, cảm giác như vừa bước vào một thế giới khác. Cả không gian trắng xóa, chỉ một màu trắng tinh khôi bao phủ khắp nơi. Bạn cùng phòng gọi tôi dậy, chưa kịp đánh răng đã mặc vội áo khoác, thế là hai anh em lao ra ngoài, bốc tuyết và chụp ảnh như những đứa trẻ lần đầu thấy phép màu.

Cả dãy cư xá rộn ràng, người gọi nhau í ới, vẽ những hình thù ngộ nghĩnh trên nền tuyết, đắp người tuyết rồi cắm cành cây làm tay chân, choàng khăn, đội mũ, y hệt cảnh vẫn thấy trên phim ảnh. Tôi ngửa mặt lên trời, đón lấy từng bông tuyết rơi xuống. Chúng chạm vào da mặt, lạnh buốt, rồi tan ra, như một cái chạm lặng lẽ mà đầy diệu kì.

Sau này, có lần tôi đi bộ từ trường về nhà trong một cơn mưa tuyết. Đường vắng, trắng mờ. Tuyết rơi nhẹ, phủ lên áo, lên tóc. Không gian lặng thinh. Trong cái lạnh buốt ấy, tôi lại thấy một cảm giác êm dịu kì lạ. Cô đơn mà không lạc lõng. Lạnh lẽo mà ấm áp. Có những ngày như thế, chẳng ồn ào, chẳng háo hức, mà khắc vào kí ức rất sâu.

Thời tiết ở đây cũng nhiều mưa, nhưng là những cơn mưa nhỏ, ngắn ngủi, đến rồi đi như chưa từng xuất hiện. Đường còn chưa kịp ướt, mưa đã tạnh. Hiếm lắm mới có cơn mưa như trút. Vậy nên, tôi nhớ da diết những đêm mưa quê nhà.

Có lần, tôi ngồi nhìn mưa rơi qua ô cửa sổ phòng cư xá. Ngoài kia, những ánh đèn học khuya vẫn lấp ló nơi khung cửa sổ các căn phòng bên cạnh. Mỗi ô sáng là một con người đang miệt mài vì một giấc mơ riêng, giấc mơ của tuổi trẻ. Về một thành tựu nào đó, một khao khát nào đó, mong được khẳng định trong cuộc đời này. Ước mơ đẹp. Thật đẹp. Dù sau này có thành công hay thất bại, nhưng mỗi khi nhớ lại những cố gắng của một thời trẻ tuổi, ai mà không bồi hồi…

Sheffield, thành phố miền Trung nước Anh, nằm trải dài trên những ngọn đồi dốc, trầm mặc mà duyên dáng, với một trường đại học cổ kính như mang theo cả chiều sâu thời gian. Những tòa nhà gạch đỏ rêu phong, những hành lang im ắng, những bức tường đá được khắc tên những nhà khoa học từng đạt giải Nobel như để nhắc nhở sinh viên về một truyền thống học thuật lừng lẫy. Tôi nhớ, đâu đó trường có năm hay sáu giải Nobel, mỗi một người là một niềm tự hào được lưu dấu cẩn thận như những vì sao trên bầu trời tri thức.

Người Việt ở Sheffield không đông, chỉ vài chục người, nhưng hầu hết đều tài năng, hiền lành và rất đỗi tử tế. Bạn chi hội trưởng khi ấy là một người nhiệt tình, cởi mở, như một người anh lớn luôn dang tay đón những người em mới từ quê nhà sang. Những bữa cơm chào đón “người mới đến” ấm cúng và đầy ắp tiếng cười, món ăn đủ cả Bắc, Trung, Nam. Nhưng chẳng ai còn nhớ tới chuyện vùng miền, chỉ còn là những người con Việt Nam xa quê quây quần bên nhau.

Vậy nên mỗi lần thấy ai đó nói về “Bắc Kì”, “Trung Kì”, “Nam Kì” với giọng điệu phân biệt, dù là trên báo hay trong đời sống, tôi chỉ mỉm cười. Nụ cười kéo tôi về với kí ức của những đêm ngồi quây quần bên nồi lẩu cay xè, bên ấm trà nóng, những câu chuyện kéo dài đến khuya. Ở đó, chỉ có tình anh em, bạn bè, tình đồng bào, không có ranh giới nào khác.

Cuộc sống, khi nhìn từ trên cao, tưởng như là một khối thống nhất, nhưng khi ta cúi xuống quá gần, lại thấy nó phân mảnh, rạn vỡ. Có lẽ vì thế mà tôi học cách điềm tĩnh quan sát cuộc đời, thay vì chen vào những xô bồ thường nhật. Sheffield dạy tôi điều đó, bằng tuyết trắng, bằng sương mù, bằng những người Việt nơi đất khách xa xôi.

Hồi mới sang, ai cũng tưởng tôi là người Tàu. Sau biết tôi là người Việt Nam thì ai nấy đều tỏ ra thích thú: “You kicked American’s ass!”, họ đùa mà thật, trong những câu chuyện hậu chiến cứ vang vọng mãi qua các thế hệ. Lúc ấy, tôi chỉ cười trừ, thấy mình bé nhỏ giữa đất trời xa lạ, mà lòng thì vẫn đầy tự hào.

Tôi có hai người bạn cùng khoa, một người Bỉ, một người Hy Lạp. Biết mặt nhau đã lâu vì học chung nhiều lớp, nhưng phải tới gần cuối kì hai mới bắt đầu trò chuyện nhiều hơn. Rồi thành bạn thân. Tối thứ Sáu, sau một tuần học hành căng thẳng, ba đứa lại rủ nhau ra pub, coi như phần thưởng cho những ngày nghiêm túc. Ở pub, luật bất thành văn là mỗi người một lượt mua đồ uống. Ba lượt xong là đã thấy lâng lâng, miệng cười nhiều hơn và câu chuyện thì chẳng dứt.

Kì lạ là, thời tiết ở đây lạnh buốt mà người ta ăn mặc hết sức mỏng manh. Nhìn mấy thanh niên đứng xếp hàng ngoài pub, co ro hút thuốc, tôi chỉ thấy tội hơn là “cool”. Còn chủ nhật thì thành phố vắng hoe. Chỉ còn lại những cụ già thong thả đi dạo với nhau. Ai trẻ đều đi đâu mất. Mãi đến tối khuya, những hàng xe mới lần lượt trở về, đèn đỏ nhấp nháy trong sương đêm.

Giao thông bên này khác xa ở nhà. Xe chạy bên trái, chạy rất nhanh nhưng tuyệt đối đúng luật. Tôi nhớ mãi một đoạn đường có biển cảnh báo: “Nơi nguy hiểm, đã xảy ra nhiều tai nạn trong năm năm trở lại đây.” Ngẫm thấy lạ, năm năm mới có vài vụ mà đã gọi là nguy hiểm. Ở Việt Nam, chừng ấy chắc chỉ là “bình thường như cơm bữa”.

Đường sá ở đây đẹp lắm. Ngoại ô là những con đường len qua cánh đồng lúa mì vàng rực, xanh ngát cỏ và hàng cây cổ thụ. Tôi tranh thủ cuối tuần thăm thú Oxford, York, Newcastle, Edinburgh… Sheffield gần Leeds, Liverpool và Manchester nên cũng từng ghé qua. Có lần, tôi đứng trước một quầy lưu niệm thể thao, một bên là khăn Liverpool, một bên là khăn Everton. Là fan MU chính hiệu, tôi hào hứng dang tay chỉ hai ngón tay cái xuống cả hai bên. Ngẩng lên, thấy bao ánh mắt đổ dồn vào đầy “phẫn nộ”. May mà tôi rút nhanh, rút gọn, chừa luôn lần sau. Gây sự giữa thánh địa của hai đội bóng là hành động điên rồ nhất tuổi trẻ tôi từng dám làm.

Tôi vẫn nhớ lần cuối ở Anh, một ngày tháng 9, bố gọi điện nói gia đình có việc gấp. Tôi vội vã thu dọn hành lí, chỉ kịp ghé London trong hai ngày ngắn ngủi. Rồi chia tay nước Anh. Trong tôi còn quá nhiều điều dang dở. Nhưng lòng vẫn mong một ngày trở lại, đi dọc hành lang trường cũ, nhìn tuyết rơi trên những ngọn đồi xám xanh.

Nước Anh trong tôi, là một mùa đông đầu đời với tuyết trắng rơi, những buổi tối pub ấm áp tình bạn, những cánh đồng trải dài và những người Việt không còn phân biệt Bắc, Trung, Nam. Là tuổi trẻ xa quê, đầy khát khao và mộng tưởng. Là một khoảng trời bình yên, nơi tôi đã từng lớn lên theo một cách khác.

Những kiếp người đến bờ bên kia...

Những kiếp người đến bờ bên kia...

Baovannghe.vn - 11 nhân vật với số phận, nghề nghiệp khác nhau, cùng xuôi đến bờ bên kia trên một chuyến đò ngang. Mỗi người đều mang theo nhiều triết lý để nhìn cuộc đời nên vì thế mà con đò cũng nặng trĩu...
Không đợi mùa, hoa súng nở. Tản văn Sương Nguyệt Minh

Không đợi mùa, hoa súng nở. Tản văn Sương Nguyệt Minh

Baovannghe.vn - Cây hoa súng mọc hoang dại ở đầm hồ, ao, hay mảnh ruộng trũng để hoang. Cây súng ưa nước ngọt và làm bầu bạn với cá chuối, cá rô, cá chày, cá diếc, ốc, ếch, chão chuộc, ễnh ương... trong một thế giới nhà quê an lành, dân dã.
Tượng khổng lồ chìm trong rác và hiệp ước chấm dứt ô nhiễm nhựa của Liên Hợp Quốc

Tượng khổng lồ chìm trong rác và hiệp ước chấm dứt ô nhiễm nhựa của Liên Hợp Quốc

Geneva, Thụy Sĩ – Những ngày tháng Tám, khi trong các phòng họp của trụ sở Liên Hợp Quốc, hàng nghìn đại biểu miệt mài tranh luận về nội dung một hiệp ước toàn cầu nhằm chấm dứt ô nhiễm nhựa, thì ngay bên ngoài, một tác phẩm nghệ thuật khổng lồ lại lặng lẽ gửi đi thông điệp cấp bách không kém. “Thinker’s Burden” – tác phẩm cao gần 6 mét của nghệ sĩ kiêm nhà hoạt động người Canada Benjamin Von Wong – đã trở thành điểm tụ hội của du khách, nhà báo, và chính các nhà đàm phán.
Bộ GD&ĐT: Đề xuất bỏ bằng tốt nghiệp THCS nhằm đơn giản hóa quản lý

Bộ GD&ĐT: Đề xuất bỏ bằng tốt nghiệp THCS nhằm đơn giản hóa quản lý

Baovannghe.vn- Nằm trong nội dung phiên họp thứ 48 của UBTV Quốc hội, sáng 13/8, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục.
Văn học trong quá trình bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống

Văn học trong quá trình bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống

Baovannghe.vn - Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức Tọa đàm "Vai trò của văn học trong quá trình bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống". Sự kiện thu hút đông đảo các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học.