Những năm 85-95 của thế kỷ trước, khi mới ra trường về nhận công tác tại Ty Văn hóa và Hội Văn học nghệ thuật Vĩnh Phú, cánh trẻ chúng tôi bấy giờ thường hay tụ tập: Tuấn râu, Quang Thái, Bá Đạo, Thiện Kế, Nguyễn Hưng Hải, Nguyễn Lưu, Văn Ngọc và Đỗ Ngọc Dũng... Sau năm 1990 có thêm Ngô Kim Đỉnh rời quân ngũ về. Hình như cánh văn nghệ sĩ cũng dễ đến với nhau hơn. Ngô Kim Đỉnh nhập hội nhanh chóng. Đỉnh có nhà mặt tiền Đại lộ Hùng Vương, ngày ấy gã làm đủ mọi nghề để kiếm sống: bán đồ gia dụng, kinh doanh các loại thảm, đồ gốm sứ, cả buôn bán giấy lộn... Sau này tôi mới biết rất nhiều tạp chí như Văn hóa, Sáng tác mới tồn kho của Ty Văn hóa, Hội Văn nghệ cũng được gã thu mua hết. Làm nhiều thứ nhưng xem ra chưa phất lên được, lại chăm sóc mẹ già. Ngô Kim Đỉnh quyết định chuyển sang buôn bán xe máy, rồi ô tô. Rồi sắm được cả ô tô, dù là cái Laza cổ từ thời Xô viết, khiến chúng tôi không ít lần phải cong đít đẩy xe cho gã.
Từng là sĩ quan chính trị yêu văn chương, rời quân ngũ Ngô Kim Đỉnh có duyên gặp nhà thơ, nhà viết kịch Trịnh Hoài Đức, rồi nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh. Lúc đó các ông đang là những tên tuổi của văn nghệ Vĩnh Phú, khen thơ Đỉnh lại hay đàm đạo thơ phú với Đỉnh, coi Đỉnh như người bạn vong niên thân thích. Được động viên, khích lệ, gã sao nhãng mọi việc, lao vào làm thơ, viết báo... thích giao du với các văn nghệ sĩ, báo chí. Sự giao du lại được nhân lên rất nhiều, sau khi Đỉnh tham dự Hội nghị Những người viết văn trẻ toàn quốc năm 1998.
![]() |
Họa sĩ Đỗ Ngọc Dũng - tác giả bài viết và nhà thơ Ngô Kim Đỉnh đi thực tế tại Xuân Sơn, năm 2000 |
Ngôi nhà mặt tiền Đại lộ Hùng Vương của Đỉnh thường tiếp đón các "tao nhân mặc khách" khắp mọi miền đất nước: nào là Nguyễn Công Dương, Nguyễn cảnh Tuấn, thi sĩ khuyết tật Hoàng Tá từ Vĩnh Phúc; Nguyễn Dương Côn từ Thái Bình; Nguyễn Thành Tuấn từ Hưng Yên; Văn Chinh, Bùi Văn Trọng Cường, Đoàn Mạnh Phương, Hà Văn Thể, Đinh Quang Tốn, Lương Ngọc An từ Hà Nội ngược; các nhà thơ Inrasara từ Ninh Thuận, Phan Hoàng từ Phú Yên đến; Lê Thiếu Nhơn, Nguyễn Hồng Lam tận Thành phố Hồ Chính Minh ra; Trịnh Bửu Hoài từ An Giang; Phạm Quang Trung, Phạm Quốc Ca từ Đà Lạt về; rồi Pờ Sào Mìn, Đoàn Hữu Nam, Phạm Duy Nghĩa, Nguyễn Ngọc Dương từ Lào Cai; Vũ Xuân Tửu từ Tuyên Quang... thường xuyên ghé thăm. Nhiều khi cả "Đại danh họa" Lưu Công Nhân - ông quý Ngô Kim Đỉnh đến mức thường gọi Đỉnh là ông "bòi" Đỉnh, lại tặng cho gã khá nhiều tranh quý. Ngày ấy, ông thường tạt qua nhà Đỉnh sau mỗi chuyến đi vẽ. Tất cả cứ qua lại, cứ tá túc nhà gã xuyên ngày, xuyên đêm. Rồi có khi nhờ gã chạy taxi đi thăm thú tận Sa Pa, Điện Biên hay Lạng Sơn, Cao Bằng... Thậm chí còn nhờ gã mối lái đưa sang tận Trung Quốc. Mỗi chuyến đi khách như thế gã phải vắng nhà cả tuần, hoặc mươi ngày. Không biết những chuyến đi như thế có mang lại vốn sống thực tế, hay cảm xúc thi ca gì cho gã không? Mà chỉ thấy khi về có thêm những can rượu đặc sản vùng miền để đãi khách. Và rồi Đỉnh có biệt danh: gã taxi đường dài, taxi "vượt biên"...
Có lẽ trong làng thơ ở nước Nam này, có hai nhà thơ chạy xe nổi tiếng: một là Tạ Văn Sỹ ở mãi tận Tây Nguyên chạy xe ôm - thơ hay, y bụi bặm mà hiền khô; hai là Ngô Kim Đỉnh, thi sĩ khùng khùng ở Phú Thọ, làm thơ, viết nghiên cứu trao đổi và chạy taxi.
Cũng phải nói thêm, ngày ấy tôi rất nể phục cô Hải vợ gã, thầm nghĩ chịu đựng một thi sĩ khùng khùng như gã đã mệt lắm rồi, đằng này khách khứa lại rượu chè cứ liên miên ngày đêm, mọi sinh hoạt bị đảo lộn. Ấy vậy mà cô luôn vui vẻ, còn đứng ra chủ trì bao nhiêu cuộc "trà dư, tửu hậu" cùng gã.
Nhà Ngô Kim Đỉnh ngày ấy như một "Trạm đón tiếp" văn nghệ sĩ cả nước. Còn đối với khách "nội địa", bản tính ham vui, thích đàm luận văn chương, tiên phong đổi mới thi ca, lại hay hứng thú góp mặt vào các cuộc tranh luận một vấn đề gì đó, cho dù có thể số đông đúng mà với gã là sai thì vẫn sẵn sàng "so găng" đến cùng... Thế nên ngoài các văn nhân ngoại tỉnh, các văn nghệ sĩ đất Tổ cũng coi tư gia họ Ngô này như một "tụ điểm tao đàn", một điểm hẹn thân thiết. Từ các tên tuổi cao niên như: Nguyễn Khắc Xương, Sao Mai, Nguyễn Hữu Nhàn, Kim Dũng, Nguyễn Đình Ảnh, Trịnh Hoài Đức, Điền Ngọc Phách... đến Cao Văn Định, Trần Dư, Trần Giang, Nguyễn Thiện Kế, Nguyễn Hưng Hải, Tuấn Râu, Quang Thái... rồi các cán bộ ngành văn hóa, phóng viên báo, đài... cũng thường góp mặt "la cà trà - tửu", đàm đạo thời luận, văn chương, nghệ thuật, hoặc hẹn hò, hợp đồng với Đỉnh chạy một vài chuyến taxi đi đâu đó...
Và như để củng cố thêm kiến thức cho xứng tầm "chủ soái" một "tụ điểm tao đàn", hầu chuyện các "tao nhân mặc khách", gã theo học khóa cử nhân báo chí, dù đến lớp khá đầy đủ không "buổi đực, buổi cái", nhưng gã chỉ nghe mà rất ít khi chép bài, làm bài kiểm tra cũng theo một kiểu không giống ai, không theo sách vở, bài học, không dùng "phao". Đáng ngại hơn, gã luôn được gọi lên phát biểu và chính gã cũng hay phát biểu, hay tranh luận, "gây chiến" với các giảng viên có học hàm Phó Giáo sư, Tiến sĩ... Nhưng xem ra mọi vấn đề gã trao đổi lại có lý và thuyết phục. Nhất là khi gã nói về văn học phương Tây, Nga, hay Trung Quốc... Khiến không ít giảng viên vừa nể phục, vừa ngán ngại ông học viên độc lạ này. Và tất nhiên hệ quả là các bài kiểm tra, điểm thi của gã rất khiêm tốn. Nhưng gã thích thế, gã thấy thế làm vui và còn tỏ ra xem thường những bài điểm cao, cho rằng học vẹt, không có kiến thức nội lực. Tôi nhớ những năm 95-97, loạt bài nghiên cứu, trao đổi của Ngô Kim Đỉnh khiến nhiều bậc "đại thụ" hoang mang. Đặc biệt, Tiến sĩ Ngữ văn Kim Hồng, đương kim Thường vụ Hội khi ấy, phải ngỏ lời xin diện kiến "Ngô tiên sinh" để mời rượu quý...
![]() |
Từ trái qua: nhà thơ Ngô Kim Đỉnh, nhạc sĩ Nguyễn Hùng, nhạc sĩ Vũ Văn Viết, nhà thơ Trần Đăng Khoa, họa sĩ Đỗ Ngọc Dũng, nhà thơ Kim Dũng, nhà thơ Nguyễn Hưng Hải |
Làm đủ mọi thứ, nhưng thi ca vẫn như "con ma" hút hồn gã, cho đến nay Ngô Kim Đỉnh, sinh 1963, quê Tiên Cát, Việt Trì, Phú Thọ đã xuất bản: Vòng luân hồi xanh (tập thơ, NXB Văn học, 1994); Đất thiêng (tập thơ, NXB Văn học, 1998); tặng thưởng tác giả trẻ của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, 1998; Mùa phai (tập thơ, NXB Văn hóa - Thông tin, 2000); Những quả trứng tiên (tập thơ, NXB Hội Nhà văn, 2004); Ra khỏi hoàng hôn (tập thơ, NXB Văn hóa - Thông tin, 2007); Tiếng vọng những ngày (tập thơ, NXB Hội Nhà văn, 2012); Tiếng vọng làng đồi (tập thơ, NXB Hội Nhà văn, 2019); cùng nhiều thơ in chung trong các tập: Thơ hái dọc đường (NXB Lao động, 1996) và Dọc sông Hồng (NXB Thông tin và Truyền thông); xuất bản và in chung đến cả chục tập thơ như thế. Nhưng là người khác lạ, Ngô Kim Đỉnh đã tập hợp và in thành hai tập Thơ chọn, và gã cũng chỉ nhận mình có hai tập mà thôi.
Thơ Ngô Kim Đỉnh thường xuyên xuất hiện trên các báo sang trọng như: Văn nghệ, Văn nghệ trẻ, Văn nghệ Quân đội, Văn nghệ Công an, Tiền phong, chương trình Văn nghệ - Đài Tiếng nói Việt Nam... từ những năm 1995-2005. Thời điểm đó đăng thơ trên các báo này thật không dễ, từng là ước muốn của nhiều tác giả. Điều đáng nói là thơ Ngô Kim Đỉnh từ ngày đó, đến bây giờ đọc lại vẫn thấy hay:
Mẹ Âu Cơ sinh trăm trứng Rồng - Tiên
Mẹ trung du nhọc nhằn chăm bẵm chín chín đôi xanh tần tảo
những quả trứng xanh nửa chìm, nửa nổi
nở lặng thầm người trai, người gái
những ngọc ngà trên đất sáng lên.
Những dòng suối, dòng sông đắng sữa ngọt
trung du tươi tắn
những làng đôi đầm ấm, quây quần khuất nẻo xanh xa...
(Mẹ Âu Cơ)
Ngưỡng vọng nước Nga
Nếu không gặp Lênin
Ăng-ghen, Các Mác đã hóa các vì sao
trên bầu trời khoa học.
Nếu không gặp Liên bang Xô Viết
nhiều dân tộc đến nay còn biền biệt đường nào.
Nhưng chúng ta đã gặp nhau làm những đoàn tàu
những đoàn tàu đi chật vật hướng về trời ánh sáng
hướng về ngày hôm nay trên những đường ray
Từ đất nước rừng nhiệt đới Việt Nam...
(Ngưỡng vọng nước Nga)
Một ngày nhận tuổi
Tấc lưỡi bạn bẻ cái tóc, cái răng
cái mồm thì ngang cái tai thì dọc
như quán bất trị ngoài đường huênh hoang.
Một ngày nhận tuổi
tiếng đập trái tim còn vọng ồn ào
bạn đang ở đâu mang mang mặt đất
bàn tay lấm láp, đôi mắt trong ngần...
(Ngày thêm tuổi)
Các đại bàng không được ươn hèn - bạn thơ từng nhắc
lạy Chúa, lũ ta
ngày ngày loay hoay trong dòng kẹt xe...
Những trăm năm Thăng Long ai từng lỡ hẹn
chiều nay lũ ta nhẩn nha
chợt trước mặt Bờ Hồ
kia những Cụ Rùa đôi khi đã phải nổi lên
Sống lặng quá bao nhiêu năm Hà Nội...
(Một ngày Hà Nội)
Những làng đồi Phong Châu
còn biết bao tổ chim khuất nẻo
líu ríu tả tơi, chìm lặng giữa đời
lảnh lót ca lên "bắt cô trói cột"...
những ấm lạnh rồi cũng phai đâu cả
bến sông đâu mà đò gọi mơ màng
giấc chiêm bao dài hơn đời thực
tiếng vọng làng đồi Mã Thượng cất lên.
(Tiếng vọng làng đồi)
Những câu thơ mới lạ nhưng đầy hình tượng, khúc sông trong mùa lũ, lũ trẻ nhà quê chơi bóng nơi mép nước cứ vô tư hát vang, dù có cắm cột gôn lên nấm mộ cỏ mọc xanh nhưng rất yên bình, những đàn trâu bò eo cỏ nặng bên sườn nghênh nghênh nghếch đôi sừng.
Một dải sông quê đầy đầy mùa lũ
băng băng mép nước trận bóng trẻ làng
nước đầy việc nước mộc đồng hát vang
Cột gôn - nấm cỏ - mộ xanh yên bình
trâu bò nặng bụng nghênh nghênh nghếch sừng.
(Đời người - hạt nước)
![]() |
Từ trái qua: Họa sĩ Nguyễn Đình Ánh, nhà văn Cầm Sơn, anh Vàng A Vừ, nhà thơ Ngô Kim Đỉnh, nhà thơ Phan Hoàng trong chuyến đi thực tế tại Sơn La, năm 2024 |
Không gian mang tính biểu tượng với hình ảnh "bóng cây tháp bút" và "dáng tượng - thần thiêng", tạo cảm giác trang nghiêm, cổ kính, chứa đựng ký ức và sự tôn kính đối với quá khứ.
Câu thơ Chừng nghe dao - kéo gợi niềm bể dâu là một hình ảnh độc đáo, "dao - kéo", kết hợp với "bể dâu", một thành ngữ chỉ những biến đổi lớn lao trong cuộc đời, hàm ý về sự biến thiên của thời gian, những cuộc bể dâu đời người. Bỗng dưng một sớm bạc đầu chỉ sự chuyển biến đột ngột của con người trước sự nghiệt ngã của cuộc sống mang suy tư, hoài niệm...
Ngoài kia gần chỗ ta ngồi
Bóng cây tháp bút dưới trời uy nghiêm
Cả bảo dáng tượng - thần thiêng
Chừng nghe dao - kéo gợi niềm bể dâu.
Bỗng dưng một sớm bạc đầu
Lăn tăn gợn nước dưới cầu lặng đi...
(Cắt tóc ở Bờ Hồ)
Thị xã hôm nay thêm con đường cao tốc
thêm rộng cửa đi khắp nơi chốn xa xôi
Ga tàu hẹp, hàng cây thưa
thêm ngõ vắng giờ ai còn ngóng đợi
Tôi sang đò tìm kiếm - chỉ buổi chợ phiên
Kìa màu áo
Kìa một thời long não,
những cổ thụ lim dim say nắng ngủ ven đường
Còn thức trắng những cánh hoa Thạch Thảo
còn khô nguyên bông Bất Tử hôm nào...
(Thị xã một ngày - 2)
Hay:
Chim Ưng, chim Cắt, Quạ, Đại Bàng
cần những cú lao mình để sống
và chúng im lặng khi bay.
Làm trai thời loạn chữ
Sao bạn cứ thở dài và tuyên bố...
Giữa rừng người hoan hỉ tuyên ngôn
Thôi
đừng đánh thức những ký ức đồng quê đã chìm cổ tích
những ếch nhái, cào cào, bươm bướm
đã già lắm rồi dưới những cuống hoa
mang tiếng người trọng chữ
sao lại đi phơi chữ...
(Nhân tiết Xuân gửi bạn viết)
Thơ Ngô Kim Đỉnh khó nhớ, khó diễn ngôn, nhưng ám ảnh, ấn tượng ghê gớm. Ngô Kim Đỉnh không nói cái trực diện, cái nhìn thấy chỉ là cái cớ để truyền tải thông điệp cốt lõi bên trong sự vật qua tứ thơ. Cái cảm thấy và thông điệp thế sự, nhân tình thế thái luôn mở rộng trong suy tưởng nơi bạn đọc, nó như đứng trước một bức tranh trừu tượng đa hình, đa sắc, đa nghĩa...
không rộn ràng một lời, không cắn xé một lời
có đôi khi tằm dệt tơ nghệ thuật
theo ngẫu hứng cách tân của con người
có đôi khi trong bữa ăn vồi vội
tằm lao xao chuyện trò và xin lỗi lá dâu
(Sự liêm sỉ của con tằm)
Ông chẳng nhớ chuyện gì để nói
xin bắt tay ông thật chặt
vì tai ông điếc đặc lâu rồi
Bước xuống sông Gâm
sững người với dòng nước mát lạnh
sao trong sao xanh thế,
Lòng sông hẹp chảy từ đây lặng lẽ
xin cúi mình trước bến sông xa
mà buộc lại dây giày
(Buộc lại dây giày ở Na Hang)
Không náo nhiệt ồn ã, hay lẫn của số đông thi ca, thơ Ngô Kim Đỉnh chứa nhiều ẩn ức, trắc trở, phản biện những thuần túy quen thuộc và luôn khám phá, nhiều khi nó hoài niệm cả những bí hiểm, mê cung trầm mặc thời gian, không gian xưa - nay đồng hiện... Nó hấp dẫn, khiến bạn đọc như rơi vào mông lung, vô định từ nhiều thông điệp, chỉ cảm được ở nhà thơ một hồn thơ nhạy cảm, dễ tổn thương mà khó diễn tả cái cụ thể.
Nào quên đi, những người đã tan vào vô định
những miền đất, những con đường, những cảm xúc
không bao giờ gặp nữa
nào quên đi, sân khấu đời người diễn mòn diễn mỏi
kể từ ngày ta đã buông tay
(Quên - nhớ đời người)
Thơ Ngô Kim Đỉnh luôn đậm cảm thức truyền thuyết, huyền thoại, những dấu xưa, tích cũ, cổ văn, phong rêu... trong tầng sâu văn hóa dân tộc từ thuở hồng hoang. Trong không gian của văn hóa phương Đông cứ thoáng ẩn, thoáng hiện tưởng như vô thức mà gửi gắm đầy triết lý nhân sinh.
Truyền thuyết xưa một mẹ Âu Cơ
trung du hôm nay - Mẹ hiền phúc - đức.
Từ Đất Tổ nở hoa sáng thơm người Đất Việt
mỗi khi về làng cúi lạy trứng tiên...
(Những quả trứng tiên)
Bây giờ bạn nằm đây
căn phòng trắng, giường nệm trắng, bệnh nhân trắng
cùng vui buồn âm ỉ bạn biết thôi
... đâu trời Âu - Mỹ từng qua
đâu chỗ đứng chỗ ngồi gió thổi...
vừa mới đây tập sách dày đợi mở
những khung toan thanh thoát đợi màu.
(Đối diện với vô thường)
Không có tài năng nào choàng lên tất cả
Trong đám đông biết ai là thầy ai
Và con người, con người luôn lừa dối
Công cuộc cạnh tranh con người đạp lên nhau.
(Qua tuổi năm mươi)
Ngô Kim Đỉnh tài hoa và lạ trong thi ca như thế, một giọng điệu không giống ai, không theo trào lưu nào. Tôi nể Đỉnh và biết chắc rất nhiều tên tuổi văn chương cả nước quý nể gã, chơi với gã bởi tài thơ khác biệt này, bởi bản lĩnh và tự trọng của kẻ sĩ, cũng như sự đọc nhiều, hiểu rộng đặc biệt về văn chương và lịch sử của gã. Nhưng chỉ khi thật cần nói Đỉnh mới nói, hoặc nói với ai? Thơ Đỉnh vẫn đều đều xuất hiện trên các diễn đàn văn chương sang trọng, dù Đỉnh cũng rất ít nói về thơ minh, về mình, đi đâu cũng chỉ nhận mình là lái xe. Bên cạnh đó, ở con người Ngô Kim Đỉnh còn là sự quảng giao hiếu khách, cùng tính cách khẳng khái, luôn nhiệt tình trách nhiệm với bạn bè, nhất là khi bạn bè có công to, việc lớn, hay hoạn nạn, công tâm yêu ghét rõ ràng trong quan hệ xã hội, động viên, ủng hộ thế hệ đàn em có triển vọng...
Tôi nhớ có lần Đỉnh lái taxi đưa mấy chúng tôi xuống Hội Nhà văn, sau những cái bắt tay giữa chủ và khách, mọi người nhìn về phía Đỉnh đang ngôi khá xa, nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh quay ra giới thiệu đấy là chú lái xe, kiêm làm thơ Ngô Kim Đỉnh. Nhà thơ Y Phương liền đứng bật dậy như gặp được tri kỉ, ông hồ hởi đến bắt tay và ôm Đỉnh thật lâu... Nhưng đôi khi người ta vẫn nhận thấy ở gã thi sĩ họ Ngô này một chút gì đó như ngang ngang, khùng khùng...
Hầu như mỗi nhà văn, nhà thơ đều có riêng cho mình một miền đất gieo ươm ngôn từ. Nam Cao có làng Vũ Đại, Nguyễn Quang Thiều không thể thiếu Làng Chùa, Trần Quang Quý là một vùng phù sa sông Thao, còn Nguyễn Đình Ảnh hay kẻ hậu sinh Ngô Kim Đỉnh dù nói, viết cái gì thì hình ảnh trung du, rừng cọ đồi chè, ngã ba sông bến Hạc vẫn luôn giới hạn, níu kéo các ông.
Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu từng nhận xét: "Thơ Ngô Kim Đỉnh bao giờ cũng đưa ta về với miền trung du xanh mướt thanh bình dấu yêu ấy. Ta được đắm chìm vào sắc màu, âm thanh, nhịp điệu thong thả thôn dã trung du vừa khoáng hoạt vừa thật nhiều bí ẩn. Trong thế giới thơ ấy, bỗng dưng một chiều nào đó ta lại bất giác giật mình bâng khuâng nghe tiếng mõ trâu lòng lèo tiếng mõ chùa".
Thử sức ở rất nhiều lĩnh vực: làm thơ, viết báo, kinh doanh tạp hóa, buôn bán xe máy, ô tô, chạy taxi, chủ quán ăn, làm giáo viên dạy lái xe... Từng thay đổi chỗ ở đến bốn lần để chọn phong thủy hy vọng vận may đến. Ở lần chuyển nhà thứ ba mọi người đều mừng cho Đỉnh, bởi ngôi nhà to, dáng dấp nhà sàn Tây Nguyên trên diện tích đất cả ngàn mét vuông, hoa trái sum suê. Có nhà mới to rộng, gã lại đón tiếp các bạn văn: Trần Đăng Khoa, Dương Kiều Minh, Sương Nguyệt Minh, Văn Giá, Nguyễn Linh Khiếu, Lê Va, Đoàn Hữu Nam, Pờ Sào Mìn... Phó Giáo sư - Tiến sĩ, nhà văn Văn Giá từng có thơ tặng gã nhân sự kiện này:
Xoay chén trà thơm trên tay
Một chút ngạc nhiên về bạn
Bước chuyển này thật là ngoạn mục
Bạn ta đã thôi phố về làng...
Ấy vậy, mà xem ra thi sĩ họ Ngô này vẫn khá chật vật trong cuộc mưu sinh, để rồi sau đó lại một lần nữa chuyển nhà. Bẵng đi một thời gian do bận công tác ở cơ quan mới, rồi nghe tin Đỉnh đã bán nhà trang trại gần Ngã Ba Then, chuyển về ở trong khu vực Đền Hùng, không còn chạy xe nữa, mở quán ăn ngay dưới chân núi Nghĩa Lĩnh. Tôi ngỡ ngàng về cuộc "cách mạng" mưu sinh lần này của Đỉnh. Thoáng nghĩ: "Cha này ghê thật, gã muốn thử nghiệm mọi ngón nghề".
![]() |
Từ trái qua: Nhà thơ Nguyễn Tiến Lộc (Việt kiều tại Canada); họa sĩ Đỗ Ngọc Dũng; Giáo sư - Tiến sĩ - Viện sĩ - nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng (Việt kiều tại Liên bang Nga); nhà thơ, nhà phê bình Đinh Quang Tốn; nhà thơ Ngô Kim Đỉnh tại tư gia Ngô Kim Đỉnh, năm 2024 |
Nhân một dịp đưa đoàn khách quốc tế thăm viếng Đền Hùng, tôi mời thêm nguyên Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Nguyễn Văn Xuất, ông Xuất quý mến và ủng hộ Đỉnh từ khi còn công tác, rất muốn Đỉnh về công tác và làm biên tập tại cơ quan Hội. Chúng tôi ghé thăm quán của Đỉnh, hỏi thăm vài người rồi cũng đứng trước cái quán có tấm biển đặc biệt: Quán đèn bão. Như để gây ấn tượng với khách, chủ quán còn treo một chiếc đèn bão thời chiến phía trên tấm biển. Hóa ra cái quán đơn sơ của Đỉnh nằm trên khu đất phía sau đền Lạc Long Quân, trên con đường chạy vào đền và khu trung tâm lễ hội. Khách đến Quán đèn bão thường là những bạn bè tri kỉ khu vực lân cận của Đỉnh, dân văn nghệ, báo chí của tỉnh, các đoàn văn nghệ sĩ, báo đài ở Hà Nội và các tỉnh quen biết Đỉnh, mỗi lần ghé thăm viếng Đền Hùng... vừa đến ăn nhậu, vừa đàm đạo thơ phú với chủ quán. Vì thế cái quán ăn kén khách này thường ít khách.
Một hôm, như để góp cho quán thêm phần rôm rả. Nhân một sự kiện của cơ quan, tôi giao văn phòng đặt ông chủ Quán đèn bão bố trí và chế biến cho một con lợn Mán tầm 30kg... Thế rồi một thời gian lại nghe tin gã đã bỏ quán, đi làm thầy dạy ở một trung tâm dạy lái xe... Rồi một hôm biết gã lại không làm thầy dạy lái xe nữa, mà lại chạy xe hợp đồng chở chuyên gia cho một công ty nước ngoài. Ối trời, gã không chịu làm cái gì lâu!
Lại nhớ, năm 2000 khi mới làm Chủ tịch Hội, tôi mời gã đầu quân về Hội làm biên tập tạp chí, nhiệt tình hăm hở, tính ra cũng chỉ được vài tháng gã lại đột ngột xin thôi. Tuy nhiên, với tinh thần trách nhiệm của người có chuyên môn chắc, Ngô Kim Đỉnh vẫn tham gia Hội đồng nghệ thuật hai khóa, rồi lại xin thôi dù đại hội đã bầu gã đến ba khóa (ngày đó Hội đồng nghệ thuật do đại hội bầu trực tiếp). Thì ra con người gã luôn thích dịch chuyển, thay đổi, thích đi nhiều, đi đến mòn giày dép. Tôi nhớ đến mấy câu thơ của gã:
Đã mấy lần khâu, dán
giày lầm lũi theo Người
thân, đế xước mòn, vẹt
chạy, đạp... mà như bơi
Bỗng hôm nay mệt mỏi
lặng ngắm nhau... Ta ngồi.
(Với đôi giày cũ)
Hôm nay, nhân đọc được chùm thơ của gã trên Viết và Đọc, cùng bài thơ chân dung do nhà văn Phùng Văn Khai viết tặng gã trên báo. Gọi cho gã để chúc mừng và hẹn hò cà phê... gã chỉ trao đổi nhanh rồi thông báo: "Tôi kết bạn Facebook rất ít, chỉ lựa chọn hơn hai trăm người, nhưng vừa hủy hơn trăm vì thấy họ cứ nhàn nhạt, rẻ rẻ... không chịu được". Ngô Kim Đỉnh là như thế.
Hướng tới kỷ niệm 50 năm Thành lập Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Phú Thọ (1975-2025)
Những ngày lạnh, tháng 2/2025