Men theo con đường quốc lộ số 37 thẳng tắp dẫn về vùng biển Thái Thụy, khi xe vừa rẽ vào một lối nhỏ được lát bê tông phẳng phiu giữa những hàng cây xanh, một cảm giác lạ thường bỗng trào dâng trong lòng. Gió biển mằn mặn, nắng vàng rải xuống cánh đồng còn đẫm hơi sương, từng nhịp bước chân như được dẫn dắt về một miền đất thiêng - nơi có đền thờ Bác Hồ, ngôi đền khiêm tốn ẩn dưới những tán cây xanh giữa lòng đất Thái Bình.
Ngôi đền được xây nên không phải bằng kinh phí từ ngân sách, cũng không phải bằng những sự đầu tư lớn lao của các dự án, mà bằng lòng dân, với tình yêu sâu nặng của những con người bình dị trong nhóm Tâm Giao, những người mẹ, người chiến sĩ đã dâng hiến cả đời mình cho lý tưởng mà Bác để lại. Đặc biệt phải kể đến hai người phụ nữ là Đỗ Thị Mến và Trần Thị Hiền.
![]() |
| Các nhà văn trong chuyến tham quan đền thờ Bác Hồ ở Thái Bình |
Đỗ Thị Mến là một cựu thanh niên xung phong thời chống Mỹ. Bà sinh ra tại xã Thái Xuyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình (nay là xã Đông Thái Ninh, tỉnh Thái Bình). Tuổi thanh xuân, bà rời quê hương lên đường ra mặt trận, làm đường, tải đạn, san lấp hố bom... Bà sống đời lính với niềm tin son sắt vào Bác Hồ. Những ngày trên đường hành quân ra chiến trường, bà và đồng đội truyền tay nhau bức chân dung của Bác rồi trịnh trọng treo lên giữa vách hầm, cùng hứa với nhau phải sống sao cho xứng đáng. Năm 1969, nghe tin Bác mất, bà lặng người, nước mắt trào ra, rồi giữa núi rừng, bà òa khóc như một đứa trẻ. Hết nghĩa vụ, bà về quê lặng lẽ sống với người chồng bị nhiễm chất độc màu da cam. Cuộc sống đạm bạc, túng thiếu nhưng trong ngôi nhà mái rạ đơn sơ ấy, trong lòng bà, tình yêu đối với bác không bao giờ nguôi ngoai. Bà bàn với chồng, muốn kê một chiếc bàn nơi trang trọng nhất, chính giữa gian nhà làm bàn thờ Bác Hồ cho ấm cúng. Ý nguyện của bà được ông Dòng - người cựu chiến binh nhiễm chất độc màu da cam sau nhiều năm lăn lộn ở chiến trường nhiệt tình hưởng ứng ngay. Ngôi nhà mái rạ đã tỏa lan một một tấm lòng yêu nước thầm lặng. Nơi đây là kết tinh của lòng dân, của đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, của tình cảm thiêng liêng dành cho vị cha già dân tộc.
Có bàn thờ nhưng còn thiếu những tư liệu nói về Người. Cuộc sống nông thôn vất vả nhưng ông bà vẫn cố gắng chắt chiu từng đồng để mua bằng được chiếc xe đạp Thống Nhất. Có xe rồi, bà Mến hằng ngày rong ruổi đạp xe đi khắp các làng mạc, thị xã, thị trấn suốt từ Bắc vào Nam để thu thập những hình ảnh và tài liệu viết về Bác. Sau gần hai năm trời tìm kiếm, ông bà đã có đủ một tập album dày những hình ảnh quý hiếm về Bác, một tủ sách và những tài liệu viết về Người. Tất cả được nâng niu như báu vật trong ngôi nhà nhỏ. Tình yêu ấy không chỉ là sự ngưỡng mộ, mà còn là một thứ tín ngưỡng thiêng liêng. Bây giờ bà chỉ mong ước, khi nào có điều kiện sẽ mở rộng ngôi nhà thêm rộng rãi hơn để đón những người khách từ nơi xa đến thắp hương viếng Bác còn có chỗ nghỉ chân. Cuộc đời bà lặng lẽ như mạch nước ngầm, âm thầm nuôi dưỡng một lý tưởng cao đẹp. Sự hy sinh, lòng thành kính và lòng tin son sắt của bà đã viết nên một câu chuyện cảm động về tình cảm chân thành của người dân dành cho Bác.
Nói về ngôi đền thờ Bác Hồ ở Thái Xuyên, Thái Thụy, Thái Bình, không ai có thể quên cái tên Trần Thị Hiền - người phụ nữ nhìn bề ngoài hiền dịu, mảnh mai, nhưng bên trong chất chứa một nghị lực phi thường và cái tâm cao vời vợi. Hơn nửa thế kỷ trước, cô bé Trần Thị Hiền được sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở xã Tây Mỗ, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội. Vào những năm sáu mươi, chiến tranh khốc liệt, đời sống khó khăn thiếu thốn mọi bề. Mới lên sáu tuổi, Hiền đã phải theo gia đình rời quê lên vùng đồi núi Thanh Sơn hoang vu để khai hoang. Tuổi thơ của cô không có nhiều niềm vui, nhưng chất chứa một bầu trời khát vọng. Gia đình nghèo làm không đủ ăn nên hết cấp hai, cô phải đi làm thuê lấy tiền để tiếp tục học lên cấp ba. Trong những thời khắc gian khó ấy, chưa bao giờ trong lòng cô nguôi ngoai hình ảnh Bác Hồ. Cô thường tâm sự: “Cứ mỗi lần gặp khó khăn, mình lại nhớ đến lời của bố: Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền. Sau này mới biết, bố đã mượn câu nói của Bác Hồ để dạy con gái. Câu nói ấy như một động lực giúp mình băng qua mọi trở ngại”. Bác không đến từ sách giáo khoa, mà đến từ những câu chuyện giản dị của cha mẹ, những bài hát của trẻ thơ, và qua tấm ảnh Bác hiền từ treo trên vách tường đất trang trọng giữa nhà. Khi lớn lên, dù cuộc sống nhiều vất vả gian truân, nhưng tâm trí cô vẫn luôn khắc ghi hình ảnh vị cha già dân tộc suốt cuộc đời vì nước, vì dân, vì những người nghèo như cô. Trong suy nghĩ non trẻ của cô gái nhỏ, Bác Hồ không chỉ là lãnh tụ vĩ đại, mà là niềm an ủi, là ánh sáng soi đường giữa bấp bênh cuộc sống. “Nếu không có Bác, làm gì có ngày hôm nay, làm gì được đi học và ước mơ cho một đứa trẻ nghèo như mình” - Cô từng tâm sự như thế, đơn giản mà xúc động.
Không cam chịu với số phận, Trần Thị Hiền làm việc quần quật suốt ngày lấy tiền ăn học. Cuối cùng, có công mài sắt cũng có ngày nên kim. Sau khi tốt nghiệp Trung học, Hiền vào học trường Trung cấp in, rồi làm công nhân xưởng in để có điều kiện học tiếp đại học. Năm 1995, Hiền tốt nghiệp khoa Hóa, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Với một nghị lực phi thường, chỉ năm năm sau, cô tiếp tục cầm trong tay tấm bằng tốt nghiệp khoa Kế toán, trường Đại học Thương mại.
Sự tôi rèn trong gian khó cùng với bản chất thông minh, sáng tạo của mình, từ một công nhân in, Trần Thị Hiền đã nhanh chóng trở thành Giám đốc Xí nghiệp in II Khoa học và Công nghệ. Thành công trong sự nghiệp, gánh vác trên vai nhiều trọng trách, bộn bề công việc, nhưng cô vẫn luôn thu xếp thời gian để đi làm từ thiện. Cô muốn làm thật nhiều việc có ích cho đời để xứng đáng là người con của thế hệ được Bác Hồ vun trồng. Trong sâu thẳm tâm hồn cô luôn đau đáu một ước mơ âm ỉ cháy bỏng suốt nhiều năm: Xây dựng một đền thờ trang nghiêm để nhân dân khắp nơi có thể đến thắp nén hương tưởng nhớ Bác. Giấc mơ ấy không phải là ý nghĩ nhất thời, nó là kết tinh từ tuổi thơ đói nghèo, từ quãng đời tự lập đầy gian truân, từ tình cảm vô bờ đối với Bác và được nuôi lớn theo từng chặng đường trưởng thành. Đó không chỉ là hoài bão cá nhân, mà còn là lời nguyện thiêng liêng của một trái tim trọn vẹn niềm tin và lòng thành kính.
![]() |
| Các nhà văn trong chuyến tham quan đền thờ Bác Hồ ở Thái Bình |
Vào một ngày tháng 7 đầy linh thiêng, như duyên trời đã định, tại lễ cầu siêu tưởng niệm nhà cách mạng nổi tiếng Nguyễn Đức Cảnh và 1.500 anh hùng liệt sĩ tại chùa Đông Am, Trần Thị Hiền và Đỗ Thị Mến - hai người phụ nữ xa lạ, từ hai miền quê khác nhau, như hai dòng sông khát khao đã hòa vào làm một. Hai tấm lòng cùng chung một nỗi niềm và lòng thành kính đối với Bác, chỉ qua những ánh mắt, họ đã tìm ra nhau và nhanh chóng trở nên thân thiết như thể đã gắn bó từ kiếp trước.
Từ cuộc hội ngộ định mệnh đó, cùng với nhóm Tâm Giao, những người bạn cùng chung lý tưởng bắt đầu hành trình thực hiện ước mơ đã bao năm trời nung nấu, ấp ủ trong lòng: Đó là xây dựng đền thờ Bác Hồ trên khuôn viên rộng hơn 500m2 do bà Đỗ Thị Mến ở xã Thái Xuyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình hiến tặng. Ngôi đền được dựng lên theo mẫu nhà sàn sinh thời Bác vẫn ở, không bê tông, mái vòm đồ sộ, chỉ là một ngôi nhà sàn mái ngói rêu phong, cột gỗ mộc nhưng đủ để làm trái tim người lặng đi khi bước chân tới. Trước đền là khoảng sân lát gạch vuông vức, có hòn non bộ. Xung quanh trồng nhiều cây xanh, toát lên một vẻ thanh bình, hòa đồng với thiên nhiên.
Cổng đền khiêm nhường với dòng chữ: “Thế giới nghiêng mình, đời đời biết ơn - Bác Hồ sống mãi với nhân dân Việt Nam”. Nét mực vàng óng trong nắng sớm như ánh sáng soi rọi tư tưởng của Người lan tỏa đến hôm nay. Bước qua cổng, ta như bỏ lại phía sau lưng bao bụi bặm, lo toan của đời thường để hòa mình vào một miền ký ức, nơi hội tụ niềm tin, tình thương và bao khát vọng tuổi trẻ.
Trong chính điện, tượng Bác Hồ hiền từ, dáng ung dung, gương mặt phúc hậu, nụ cười độ lượng. Đôi mắt Người như ánh sáng không bao giờ tắt, dõi theo từng bước chân, từng cái cúi đầu của con cháu. Không gian trang nghiêm mà ấm áp lạ kỳ. Những đóa hoa dâng trước bàn thờ, hương thơm tinh khiết, gợi nhớ cả một đời thanh bạch và một nhân cách cao đẹp. Người đến lễ không chỉ để thắp nén nhang, mà còn để trò chuyện cùng Bác bằng chính tâm hồn mình, để tìm chỗ dựa, tìm sự soi sáng. Ngôi đền không chỉ là nơi thờ phụng, mà còn là ngôi trường lớn về nhân cách và lòng biết ơn. Mỗi câu đối, mỗi kỷ vật trưng bày đều là bài học sống động về đạo lý uống nước nhớ nguồn. Các em học sinh về đây, rụt rè dâng nén nhang, đôi mắt trong veo, long lanh. Chắc hẳn trong tim đã khắc sâu một niềm tự hào: “Mình là cháu con của Bác, mình phải sống xứng đáng hơn”. Những cụ già tóc bạc phơ chắp tay cúi lạy, trên khóe mắt còn ngân ngấn nước. Có lẽ giọt lệ ấy đã nối dài từ những ngày tháng 9 năm xưa, khi cả dân tộc òa khóc vì mất đi Người Cha.
Đền thờ Bác Hồ ở Thái Thụy không chỉ là một địa chỉ đỏ, một di tích văn hóa - lịch sử, mà còn là dòng mạch ngầm nuôi dưỡng tâm hồn con người. Mỗi lần trở về đây, lòng ta như được gột rửa khỏi bụi bặm của đời sống thường nhật. Ta thấy mình nhỏ bé, nhưng cũng thấy mình trưởng thành hơn, trách nhiệm hơn, bởi ta là một phần trong dòng chảy của dân tộc mà Bác đã dành cả cuộc đời vun đắp.
![]() |
| Các nhà văn trong chuyến tham quan đền thờ Bác Hồ ở Thái Bình |
Mỗi khi hoàng hôn buông xuống, khói hương tỏa lan, tiếng chuông ngân vang, cả khu đền như chìm trong sắc vàng bảng lảng. Lúc ấy, người ta dễ bắt gặp cảm giác như Bác vẫn đâu đây, giữa hàng cau, giữa vườn hoa, trong ánh chiều quê yên ả. Và trong khoảnh khắc lặng lẽ ấy, một lời thầm thì vang lên trong tim mỗi người: “Phải sống tốt hơn, phải sống tử tế hơn, phải làm tròn trách nhiệm của một công dân trong đất nước mà Bác đã hiến dâng trọn đời mình dựng xây, vun đắp”. Niềm tự hào về Bác, về dân tộc, từ đền thờ nơi đất Thái Xuyên, Thái Thụy, không chỉ dâng trào trong một khoảnh khắc. Nó theo ta vào công việc, vào từng hành động nhỏ bé trong đời. Nó nhắc ta kiên cường hơn khi gặp khó khăn, nhân ái hơn khi đối diện tha nhân và bền chí hơn trong việc dựng xây cuộc sống.
Đền thờ Bác Hồ ở Thái Xuyên, Thái Thụy, Thái Bình (nay là xã Đông Thái Ninh, tỉnh Thái Bình) không chỉ là một ngôi đền. Đó là trái tim, là ánh sáng, là lời nhắn gửi từ quá khứ tới hiện tại, từ hiện tại tới tương lai. Và trên con đường nhỏ rời khỏi đền, khi ngoái lại nhìn mái ngói rêu phong trong ánh chiều, ta chợt nhận ra: Mình vừa đi qua không gian của lịch sử, nhưng đồng thời cũng bước vào không gian của tương lai - nơi Bác vẫn luôn sống mãi trong lòng người dân và đồng hành cùng con cháu trên hành trình dựng xây và bảo vệ Tổ quốc.
12/9/2025