Sáng tác

Người chốn quê. Tản văn của Sương Nguyệt Minh

Sương Nguyệt Minh
Tản văn
08:30 | 24/03/2025
Baovannghe.vn - Tôi sinh ra ở nhà quê, lớn lên ở nông thôn.
aa

Ba mươi năm sống ở thủ đô Hà Nội, nhưng chưa bao giờ tôi là người thành phố của cây cơm nguội, của "Hồ Tây chiều thu, mặt nước vàng lay bờ xa", của “chim sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời". Tôi luôn có một niềm tin vững chắc rằng: 30 năm, thậm chí 70 năm vẫn chưa đủ thời gian để biến một đứa trẻ đỏ hỏn ở xứ nghèo đồng chiêm trũng oằm oặp nước cả mùa giáp hạt Ninh Bình quê tôi trở thành một người Tràng An - Hà Nội, huống chi tôi sinh ra, lớn lên gần hai chục năm ở xóm mạc, ruộng đồng đã kịp hình thành tính cách nhà quê một cách vững bền, kiên cố, không dễ gì đổi thay được. Vậy thì, dứt khoát phải có điều gì đó làm nên căn cốt NGƯỜI Ở CHỐN QUÊ đến mức bền lâu như thế?

Tuổi thơ tôi là những ngày ngụp lặn tắm táp, mò cua, bắt ốc, lấy rong, ngắt bông súng ở đầm, hồ, sông ngòi và cánh đồng đầu làng trải rộng đến chân đê sông Bút. Ngồi trên lưng trâu nghe sáo diều thả lên từng không dìu dặt trong các buổi chiều tàn, mặt trời lụi dần gác trên đỉnh núi con Rùa buông nhẹ một màu đỏ ối. Hoàng hôn ánh xạ vô vàn sắc màu lung linh lên những đám mây nhàn tản trôi an lành. Tôi cứ tự hỏi: đằng xa phía chân trời kia là cái gì?

Phải rất lâu sau, đi gần khắp các nẻo đường gặp ghềnh đất nước, tôi mới nhận ra: phía chân trời xa kia là một cõi hoàn toàn mới lạ, là thế giới của những người công chức, thị dân dưới ánh đèn điện ở phố phường. Họ có đời sống, có tư duy, cách nghĩ và sinh hoạt khác biệt với người nông dân chân lấm tay bùn lam lũ cám lợn ao bèo, thì thụp cối chày giã gạo dưới ánh đèn dầu hỏa tù mù sớm hôm khuya khoắt trong lũy tre làng. Tôi đồ rằng, cũng sẽ có bao nhiêu thằng trai mới lớn như tôi đã từng tò mò và băn khoăn về chân trời xa như thế. Quá trình nhận thức về cõi lạ, về thế giới mới dấn thân cũng là hành trình đi tới hiểu ra con người và quê hương mình. Thời chiến tranh chống Mỹ, trai tráng làng tôi ra trận hết, xóm thôn toàn ông già, bà lão, trẻ con, toàn đàn bà con gái. Cái không khí vắng vẻ, hiu hiu, trầm lắng đến lạnh lẽo bởi phần âm trội hơn phần dương ở làng cứ bám riết tôi đến tận bây giờ. Có ở nơi nào trên trái đất này, người mẹ khốn khổ gạt nước mắt giao đứa con trai mười bảy tuổi - thằng đàn ông thợ cày cuối cùng của làng cho bộ đội; và ngay từ phút giây ấy, người mẹ biết mình sẽ luôn sống bất ổn trong tâm trạng cầu may, phấp phỏng chẳng biết khi nào đứa con sẽ trở về?

Có! Làng tôi - làng Côi Trì có những người mẹ chân lấm tay bùn như thế.

Có ở nơi đâu trên cõi dương gian này, người vợ ở đằng đẵng chờ chồng năm năm, mười năm, chờ từ cái đêm hết thời thiếu nữ chưa kịp làm thiếu phụ mòn mỏi thiếu vắng đàn ông đến lúc thành “bà cô", đến tận ngày thắng lợi cuối cùng mà chồng đi trận vẫn chưa về?

Có! Những người thợ cấy làng quê tôi như thế!

Làng vắng bóng đàn ông trai tráng. Thợ cày cầm súng ra trận hết. Không còn cái cảnh đầm ấm, náo nức:

“Trên đồng cạn dưới đồng sâu

Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.

Những người đàn bà cấy hái làng tôi lại thay chồng thay con trai cầm cày. Con trâu đi trước, cái cày theo sau và sau cùng là người đàn bà một tay cầm chuỗi cày, một tay cầm thừng “vắt...vắt”, “diệt... diệt". Cánh đồng làng mênh mông chỉ toàn thấy trâu cày da đen nhánh và đàn bà đội nón trắng gài lá xanh nhấp nhô. Lưỡi cày sâu sát tầng đất gan gà. Đất lật lên cuồn cuộn. Rãnh cày sâu in dấu móng guốc chân trâu và in cả bàn chân phụ nữ váng phèn ngả màu vàng đã góc cạnh, chai sần, Ôi! Cái vẻ đẹp dịu dàng lẽ ra cần được nâng niu, tựa đỡ, chăm bẵm thì phải làm công việc cơ bắp thay đàn ông lực điền "cổ cày vai bừa" đã ra trận, Xót xa quá!

Người chốn quê. Tản văn của Sương Nguyệt Minh
Không giống như Hà Nội cái gì cũng sẵn, người dân quê tôi muốn có cái Tết tươm tất phải tự làm từ A đến Z. Ảnh: Việt Nguyễn

Chị dâu tôi cũng là một thợ cày thợ cấy, năm nay ngoài 70 tuổi. Hơn nửa thế kỷ, chị làm dâu nhà tôi khi tóc còn cụm cúm, hoe hoe đỏ đuôi gà, đến nay tóc bạc trắng. Chẳng biết bao nhiêu nắng mưa dội xuống đầu chị tôi, không biết bao nhiêu gió bão đi qua vạt áo nâu màu đất và mái tóc cứ đổi màu theo tháng năm. Tôi vẫn nhớ, chị dâu có bầu đứa thứ 10. Vụ giáp hạt năm ấy đồng không sông quạnh, nước trong veo bởi cách đó mấy tháng lụt mênh mang, lúa má mất sạch, cả làng đói, cả nước đói. Một đàn con lau nhau. Chị dâu tôi vác cái bụng kềnh kệnh như con nhện chửa đi xe bò chở đá. Vậy mà, “đói ăn đầu gối phải bò", chị tôi vẫn dong con bò mộng lông đen nâu và cái xe bò bánh lốp định mệnh ra khỏi nhà theo tiếng gọi của bầy con nheo nhóc đang đói dạc dài. Con bò nhẫn nại leo dốc cầu Bút. Đá xếp ở thùng xe nặng quá, càng xe võng lên. Con bò ghì cổ ấn vòng dây giữ ách, ì ạch lên cầu. Nhọc nhằn lên cầu bao nhiêu thì khốn nạn lúc xuống dốc bấy nhiêu. Dốc cầu bên này độ nghiêng nhiều hơn. Mấy khối đá chất trên cái xe bò bánh lốp ách lên vai con bò. Dốc nghiêng quá, xe lao nhanh. Con bò đã hết sức ghì dây, nó cứ thế chạy phăm phăm. Bánh lốp lăn trên mặt đường dốc gặp phải hòn đá, xe quất sang một bên, hất chị dâu tôi cùng cái bụng chửa xuống mặt đường gồ ghề đá răm, đá hộc. Chị dâu xảy thai. Số phận đứa con thứ mười không được sống ở trần gian gắn với chuyến xe bò bánh lốp chở đá định mệnh.

Có bao nhiêu người đàn bà nông dân như chị dâu tôi? Tôi bắt gặp nỗi lo lắng trên gương mặt của cô ruột tôi. Bà cô ca cẩm: “Khổ thân chúng mày! Đi làm việc nhà nước vất vả quá. Mới bước sang tuổi năm mươi mà tóc đã bạc, mặt vêu vao, khắc khổ, âu sầu. Có ăn được không cháu?" Con tôi nhanh nhảu trả lời thay: "Bố cháu ăn được, uống được. Toàn đi ăn đặc sản nên béo ú, đấy bà ạ". Bà cô hỏi: “Ăn đặc sản là ăn cái gì mà mày khoe cho bố?" Con tôi thưa: "Dạ! Cơm niêu a. Ốc nhồi hấp lá chanh ạ. Gà ri, ba ba, cá chép ạ. Cá bống kho rau răm ạ. Lòng lợn se điếu, cổ hũ dạ dày ạ. Rau lang luộc ạ. Mắm cáy, mắm tép riu ạ..." Bà cô kêu: "Ôi giời ơi đất ơi! Tưởng gì. Toàn đồ ăn của con nhà nông nghèo chúng tôi. Khốn nạn, rau lang thì báu gì. Tháng ba bà cắt cả gánh băm nấu cho lợn sề. Tát ao lần nào cũng mấy thúng cái đựng ba ba, ăn không hết đem bán, đem cho ê chề. Cơm niêu thì ngày nào bà cũng ăn, gạo nấu nồi đồng, nồi gang, nồi nhôm, bà không ăn được, nó tanh đồng lắm. Ngày xưa, bố mày đã chả đập vỡ không biết bao nhiêu chã kho cá với niêu đất. Lửa đun to quá mà, mảnh vỡ ném đầy bụi tre ấy. Khốn khổ! Cái thứ nhà quê chúng tôi ăn chán chê, ăn phát ngán lúc giáp hạt ngày ba tháng tám thì phố phường các anh lại coi là báu vật đặc sản. Thật không còn biết giời đất ra làm sao nữa!" không hiểu nổi phố phường, đô hội tân tiến thế mà lại coi rau lang luộc, ngọn bí ngọn bầu sào, con ốc nhồi hấp lá chanh là... đặc sản. Cứ như trong tâm tưởng "những con khủng long vĩ đại" còn sót lại từ đầu thế kỷ 20 thì chúng tôi là người thành phố dứt khoát phải ăn giò chả, dăm bông, xúc xích, lạp sườn..., những thứ cao sang ấy còn đọng lại trong trí nhớ mù mờ của các bà từ vài lần nhìn thấy ở cửa hiệu ăn sang trên thị xã Ninh Bình. Những người nông dân ở đâu trên vùng châu thổ sông Hồng cũng có đức tính "nhịn ăn đãi khách", nghèo khổ khó mấy, nhưng khách quý đến nhà cũng làm cỗ đãi, dù chỉ còn con gà mái ổ cuối cùng đang đẻ trứng cũng làm thịt. Con cháu đi xa sống ở thành phố không giàu có nhưng cũng chẳng nghèo. Mỗi lần về quê là chị dâu, chị gái, hoặc cô dì, chú bác... lại dốc lọ dốc chai đựng lạc nhân, đỗ đen, hoặc xúc gạo nếp trong chĩnh ra gói lại bắt mang theo bằng được. Không nhận là giận dỗi, là nói khi rằng: chúng mày giàu có rồi, ăn gì những thứ này. Chúng mày chê nhà cô (nhà chị) nghèo. Cái khách khí, giữ ý giữ tứ thường bị cái tình cảm thân mật, đáng yêu lấn lướt, trên hết còn lại là chữ TÌNH. Những ngày giáp tết, và cả ngày ba mươi nữa, trong làng cứ kháo nhau con nhà này đã về, con nhà kia chưa thấy tăm hơi. Đến ngày mùng một, mùng hai tết thì ai ai ở làng cũng có thể bấm ngón tay, kể vanh vách tên tuổi của những người xa xứ về quê ăn tết. Chả bù cho lối phố nhà tôi, “đèn nhà ai nhà ấy rạng”, tốt nhất đóng cửa im im, nhà nào biết phận nhà nấy, thậm chí ông hàng phố chết ở bệnh viện cả năm rồi mà nhà bên chẳng biết.

Giáp Tết, về quê, bỗng chốc, tôi nhìn ra con đường làng đổ bê tông lên gạch lát nghiêng chạy ngoằn ngoèo về các ngõ và những nhà mái bằng xi măng cốt sắt đông cứng, lạnh lẽo lô nhô trong xóm mạc dưới làn mưa bụi bay trắng trời, lại chợt buồn. Đời sống kinh tế chốn quê khá lên rồi; ti vi màu, tủ lạnh, video và nhiều bữa cơm có thịt cá, nhưng cây xanh tươi mát hình như đang lui dần chỗ cho bê tông lạnh cứng ngự trị. Chẳng ai dại dột muốn trở lại thời “mái tranh đi hỏi mái tranh", nhưng người chốn quê đang hoang mang trước sức tấn công ồ ạt của vật liệu cứng thời đại văn minh công nghiệp. Đi cùng là văn hóa công nghiệp cũng đổ về làng. Cái sự bình yên của làng quê nông nghiệp đang bị khuấy lên rồi.

Tuy nhiên, dường như bạn bè tôi người nào cũng bảo về quê ăn tết vui hơn ở thành phố. Là bởi, cùng cơ quan ngày nào cũng nhìn thấy nhau nhẵn mặt, ngày nào cũng nói chừng ấy câu chuyện, tết gặp nhau chả biết nói gì, ngoài màn chúc xã giao, rồi nâng ly chạm cốc. Tốt nhất cứ có tiền, phóng ô tô ra siêu thị chừng giờ đồng hồ thì đủ cả mứt, bánh chưng, bánh tét giò chả, bánh kẹo,... Nhàn nhã, thảnh thơi, nhưng chẳng có cái thú vui rộn rịch tát ao từ ngày Ông Táo lên chầu Giới 23 tháng Chạp, sẽ chẳng có cái cảnh quây quần quanh nong gói bánh chưng, người lau lá, kẻ vo gạo và đêm Giao thừa ngồi canh nồi bánh chưng nghe bà nội kể chuyện bánh chưng bánh dày của Lang Liêu. Rồi ngồi tính nhẩm một năm làm được bao nhiêu tấn thóc, bán mấy lứa lợn nuôi được mấy chục con gà... niềm vui ngày tết bình dị, hạnh phúc biết bao. Tất nhiên, cái tình người vẫn náo nức, ngong ngóng hỏi thăm bạn bè cùng học phổ thông, bạn bè thời đi lính... ai mất ai còn. Tết Nguyên đán còn như là cái cớ để người ở nhà gặp người đi xa, người đi xa gặp người đi xa cùng trở về....vv. Tất nhiên, bên mâm cơm ngày cuối năm, không ít người chợt lén lau giọt nước mắt vừa ứa ra vì bỗng dưng nhớ những năm tháng thợ cày thợ cấy ra trận, và xót xa nhớ ai đó còn nằm lại giữa đại ngàn, tết này vẫn chưa về.

Thèm quá cái tình người ở chốn quê.

Văn nghệ, số 1+2/2014
4 lợi ích khi áp dụng mức thuế suất 10% cho toàn bộ cơ quan báo chí

4 lợi ích khi áp dụng mức thuế suất 10% cho toàn bộ cơ quan báo chí

Baovannghe.vn - Sáng 26/3, tiếp tục Chương trình Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách lần thứ 7, Quốc hội khóa XV, Phó Chủ tịch Nguyễn Đức Hải điều hành phiên thảo luận.
Bộ GD&ĐT: Chuyển đổi số, cải cách hành chính là giải pháp đột phá

Bộ GD&ĐT: Chuyển đổi số, cải cách hành chính là giải pháp đột phá

Baovannghe.vn - Sáng 26/3, Ban chỉ đạo Phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, cải cách hành chính, Đề án 06 của Bộ GD&ĐT đã nhóm họp phiên đầu tiên.
Một diện mạo mới của Mỹ thuật trẻ

Một diện mạo mới của Mỹ thuật trẻ

Baovannghe.vn - 159 tác phẩm của sinh viên Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam đang hội tụ trong triển lãm Mỹ thuật sinh viên 2025 tại Art space, 42 Yết Kiêu, Hà Nội, góp phần tạo nên diện mạo mới cho Mỹ thuật trẻ.
Bản tin Văn nghệ ngày 26/3/2025

Bản tin Văn nghệ ngày 26/3/2025

Baovannghe.vn - Vào tối 3/4/2025 tại Quảng trường Lâm Viên, TP. Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, diễn ra Lễ Kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng Lâm Đồng (3/4/1975 – 3/4/2025)
Rỗng - Thơ Lê Na

Rỗng - Thơ Lê Na

Baovannghe.vn- Nghiêng đêm/ sợ rớt/ xuống ngày