Sáng tác

Người của rừng. Truyện ngắn của Phạm Xuân Đào

Phạm Xuân Đào
Truyện
07:00 | 17/02/2025
Baovannghe.vn- …Buổi chiều một ngày hè năm 1972, một mùa hè đỏ lửa, khốc liệt nhất thời đánh Mỹ, đơn vị chúng tôi đang sửa soạn lên đường, để đêm tập kích vào một cứ điểm ở khu vực Krong Ana thì B52 ập đến. Nghe tiếng ù ù từ xa, ai cũng nghĩ, chắc nó rải bom ở đâu đó chứ chẳng quăng xuống nơi này.
aa

Sau một ngày làm việc căng thẳng, đoàn chúng tôi ăn tối tại “bếp ăn dã chiến” trong rừng rồi trở ra tá túc tại một gia đình ở bìa rừng. Chủ nhà là một người đàn ông quãng gần bảy mươi nhưng còn khỏe mạnh, nhanh nhẹn. Tôi nhìn ông, ngờ ngợ… Ông rót trà ra chén, nhìn chúng tôi:

- Mời các cán bộ Kiểm lâm uống nước đi! Uống cho nóng.

Người của rừng. Truyện ngắn của Phạm Xuân Đào
Minh họa. Nguồn: Internet

Nghe lời, tôi bưng chén đưa lên miệng nhưng mắt không rời khuôn mặt quen quen mà là lạ ấy. Cố lục tìm trong trí nhớ… và phải mấy phút sau tôi đã nhận ra. Đúng là ông rồi, không thể nhầm lẫn được. Không kìm được, tôi buột miệng:

- Phải anh Phạm Bá Châu, quê ở Kiến Xương, Thái Bình không?

Chủ nhà mỉm cười, nhìn và chỉ vào tôi:

- Còn chú là Thuấn, Lê Quang Thuấn, Nông Cống, Thanh Hóa?

- Vâng, đúng em Thuấn, Thanh Hóa đây.

- Chú còn sống sao? Cứ nghĩ chú hi sinh rồi... nên tôi không dám nhận.

Chúng tôi nhào vào ôm riết… thân thương. Tôi nghe rõ hơi thở gấp gáp sau gáy, cảm nhận có cái gì đó nong nóng nơi cổ và tai mình. Hình như là nước mắt. Tôi ghì chặt anh hơn, sống mũi cay cay. Lát sau, chúng tôi buông nhau ra, mắt ai cũng ngấn lệ. Tất cả anh em trong đoàn nhìn chúng tôi, ngỡ ngàng. Sau cái giây phút bàng hoàng sung sướng ấy, anh vào góc nhà sàn đem ra một hũ rượu, cười lớn:

- Lâu lắm rồi, có dễ gần bốn mươi năm anh em mình mới gặp lại, tiện có mấy cán bộ đây, ta làm mấy chén nhá.

Nói rồi, anh bảo đứa con gái đem cho mình túi lạc nhân. Anh bắc chảo lên bếp, đổ lạc, lấy thanh củi ngoắng lia lịa. Vừa ngoắng, anh vừa nhìn, hỏi tôi về công việc, gia đình, vợ con. Tôi thông báo sơ qua về cuộc sống của mình kể từ khi rời quân ngũ cho anh nghe.

Khi mẻ lạc đã chín, mùi thơm loang khắp nhà sàn, anh nghiêng chảo đổ lạc vào cái mẹt. Đoạn, anh hất nước trà trong chén xuống sàn, rót đầy rượu vào, nhìn chúng tôi, xúc động:

- Nào, uống đi mấy cán bộ! Uống mừng cho anh em chúng tớ hội ngộ đi nào!

Tất cả nâng chén, cụng rồi ngửa cổ dốc rượu vào miệng. Mọi người nhón những hạt lạc nóng rẫy, vê vê cho tróc vỏ, cho vào miệng, nét mặt ai cũng hoan hỉ. Tôi nhìn anh, nhìn những người trong đoàn, giới thiệu:

- Giới thiệu với anh em, đây là anh Châu, ông anh tôi hồi đánh Mỹ…

*

Đêm ấy, thể theo nguyện vọng của anh em trong đoàn, tôi đã kể cho họ nghe về người anh đáng kính của mình.

…Buổi chiều một ngày hè năm 1972, một mùa hè đỏ lửa, khốc liệt nhất thời đánh Mỹ, đơn vị chúng tôi đang sửa soạn lên đường, để đêm tập kích vào một cứ điểm ở khu vực Krong Ana thì B52 ập đến. Nghe tiếng ù ù từ xa, ai cũng nghĩ, chắc nó rải bom ở đâu đó chứ chẳng quăng xuống nơi này. Vì thế, mọi người rất chủ quan. Nhưng trong nháy mắt, bom xới tung đất đá, lửa rần rật cháy, hất tất cả chúng tôi khỏi vị trí của mình…

Tôi tỉnh dậy, thấy mình nằm trong căn lán dã chiến. Một khuôn mặt quen thuộc đang ngồi bên. Đó là anh Châu – tôi chỉ vào người đang ngồi trước mặt mình - Quê anh ở Kiến Xương, Thái Bình. Tôi bị sức ép quá nặng, máu từ phổi trào ra, ngực tức ghê gớm. Anh Châu nhẹ nhàng lấy khăn ướt lau mặt và động viên tôi hãy cố gắng vượt qua cái thời khắc ngặt nghèo ấy. Tôi chỉ biết có thế rồi lại thiếp đi, không biết gì nữa.

Sau này, khi sức khỏe hồi phục, tôi được biết, chính anh Châu là người phát hiện, đào bới và đưa tôi lên khỏi căn hầm bị bom Mỹ đánh sập và bế chạy, đưa tôi đi cấp cứu ở trạm xá tiền phương.

Ngày trước, anh em đã rất quý nhau, nhưng sau cái đận B52 ấy, tôi càng quý anh hơn. Một chiều ngồi bên bờ suối cạn, tôi đề nghị, được anh chấp nhận và chúng tôi kết nghĩa anh em. Hứa với nhau rằng, nếu chết cả thì thôi, nhưng một người còn sống thì phải về quê người kia để thăm bố mẹ, họ hàng. Nhưng chiến tranh đâu có dễ cho chúng tôi muốn gì được nấy. Tháng sau, tôi được điều động cho đơn vị khác rồi tiến về miền Tây. Kể từ đó, tôi không có tin tức gì của anh Châu cả.

Sau năm 1975, tôi được ra quân rồi thi đỗ vào Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Dịp hè, nhớ địa chỉ, tôi tìm về quê anh và được biết anh vẫn còn sống, đã về quê nhưng sau đấy anh lại ra đi. Mà dân làng không ai biết anh đi đâu, làm gì nữa.

- Thôi, uống đi chú em! Sơ sơ vậy được rồi – anh Châu nhắc.

Nghe anh, tôi cười, cầm chén rượu lên, tợp một hớp rồi đưa mắt nhìn anh:

- Anh ơi, anh già đi nhiều. Nhưng cái nét nhanh nhẹn và nhất là nụ cười bản quyền thì vẫn như xưa, không lẫn vào đâu được.

Anh cười hồn hậu:

- Quy luật mà chú. Mấy chục năm rồi còn gì - Nói rồi, anh quay ra nói chuyện với mấy cán bộ trong đoàn tôi. Và xem ra, anh em trong đoàn có vẻ cũng thích người chủ nhà chân chất, quê kệch ấy.

Tôi ngồi ngắm anh, lòng chạnh nhớ về câu chuyện qua đợt về quê tìm anh. Bà con ở đây kể rằng, về quê khi bố mẹ đã lần lượt theo gót tổ tiên, anh ra mộ thắp hương cho bố mẹ xong thì trở về căn nhà quen thuộc, khi ấy đang được một người em họ trông giúp. Anh không nghỉ ngơi, không lấy vợ mà lao vào làm kinh tế. Anh vay vốn Ngân hàng về đấu thầu mấy hecta đầm hoang; thuê người nạo vét rồi ra phòng Nông nghiệp huyện mời kỹ sư về bày cho cách nuôi cá nuôi tôm. Rồi anh làm chuồng trại chăn nuôi lợn thịt. Anh Châu thuê người làm và trả lương cho họ. Thấy người thương binh hiền lành lại làm kinh tế giỏi, nhiều cô thôn nữ đem lòng yêu thầm nhớ vụng anh. Trong số này có cô Tân, một người làm thuê còn trẻ và khá đẹp gái. Ai cũng nghĩ, có lẽ họ sẽ thành đôi…

Rồi cô Tân có thai. Cô khoe với mọi người rằng, cái thai ấy là của anh Châu. Ai hỏi, anh Châu chỉ cười. Thấy bụng con gái mình mỗi ngày mỗi lùm lùm, bố Tân tìm đến nói chuyện “nghiêm chỉnh” với anh. Đến lúc này anh mới sững sờ, đỏ mặt nói rằng, không phải của mình. Nghĩ anh thương binh có máu công thần, bất chấp tất cả nên cả nhà Tân kéo đến. Nhưng anh nhất định không nhận. Anh trai Tân chỉ tay vào mặt Châu, lớn tiếng “Mày là thằng đểu. Có gan ăn cắp, có gan chịu đòn, sao lại dở cái thói ăn lường đéo quỵt ra đây? Tao sẽ không để mày yên đâu!”.

Ngay hôm sau, đơn tố cáo anh Châu được gửi lên công an huyện. Và anh Châu đã bị triệu lên.

Tiếp anh là một viên thiếu tá công an. Thiếu tá bảo “Gia đình cô Tân tố cáo, anh đã ăn nằm với cô ấy và cô ấy đã có thai. Anh nên nhận và tính chuyện cưới người ta đi. Trai chưa vợ, gái chưa chồng có gì mà ngại. Nếu không, anh sẽ mất hết chính trị, kinh tế và phải đóng góp phí tổn nuôi đứa bé tới khi nó đủ mười tám tuổi theo Luật đấy”. Nghe vậy, anh Châu chỉ mủm mỉm. Không thể chịu được cái cung cách ấy, viên sĩ quan dằn mạnh tờ đơn xuống bàn, găm cái nhìn như khía vào mặt người cựu chiến binh, quát “Chuyện đến nước này mà anh còn cười được à? Anh có còn tự trọng, còn chút liêm sỉ nào không?”. Châu thủng thẳng “Tôi còn nguyên lòng tự trọng và có liêm sỉ đấy chứ đồng chí, có ai lấy trộm được đâu”. “Anh im đi! Nên nhớ, anh đang nói chuyện với nhà chức trách chứ không phải ở chợ, nghe chưa?”. Châu cự lại “Sao các anh lại tin cô Tân và gia đình cô ấy mà lại không tin tôi?”. “Anh có gì cho người khác tin chứ? Khi anh hú hí với cô ấy thì có người làm chứng không? Là đảng viên với nhau, tôi khuyên anh nên chọn giải pháp tốt nhất để bảo vệ danh dự cho mình…”. Châu xua tay “Thôi thôi, đồng chí thiếu tá. Tôi nghĩ là sẽ có người làm chứng cho tôi đấy!”. Thiếu tá hất hàm “Sao? Có người làm chứng à? Thế sao anh không nhờ người ta đi?”. “Thì bây giờ tôi nhờ cũng đã muộn đâu. Người làm chứng chính là đồng chí đấy thiếu tá ạ.”. Đập tay xuống bàn đánh “chát”, thiếu ta nói qua kẽ răng “Anh đùa với nhà chức trách phỏng?”. Anh Châu cười “Không đùa đâu, tôi nói thật đấy. Mời thiếu tá vào phòng trong, mọi việc sẽ được sáng tỏ ngay mà. Nào, xin mời!”.

Giận lắm, nhưng thấy anh Châu nghiêm túc nên viên thiếu tá miễn cưỡng đứng dậy, cùng vào phòng trong. Lát sau, hai người đi ra. Thiếu tá nói giọng trách cứ “Khổ quá! Sao anh không nói thẳng ra để cho mọi người biết”. Anh Châu ôn tồn “Thế anh bảo tôi phải nói thế nào? Hôm nay thì anh rõ rồi, nhờ anh nói lại để gia đình cô Tân và địa phương biết, thế là ổn.”. “Thôi được rồi, tôi sẽ giúp anh…”.

Sáng sau, thiếu tá công an về thông báo cho ủy ban nhân dân xã biết, anh Châu là một thương binh đặc biệt. Kẻ thù đã lấy đi “cái bộ phận ấy” của anh, không cho anh làm một người đàn ông. Việc cô Tân và gia đình cô ấy làm đơn tố cáo là một sự vu cáo. Lẽ ra, pháp luật phải xử nghiêm, nhưng xét không nên làm cho sự việc phức tạp thêm, nên thôi.

Chuyện là thế. Vậy mà có thằng bố láo nào đó, không biết vì lý do gì đã đặt ra một bài vè láo toét quanh chuyện anh Châu bị mất của quý. Và cứ thấy bóng anh đâu, bọn trẻ trâu lại ông ổng hát…

Lạ thay, giáp mặt với súng đạn, gửi cả xương máu ở chiến trường không sao, nhưng nghe mãi những lời hát nhảm nhí ấy, anh Châu không chịu nổi. Sau đó, người ta thấy anh bán tất cả những gì đang có, từ nhà cửa, ruộng vườn, ao hồ đến trâu bò, gà vịt… rồi bỏ làng ra đi…

- Này Thuấn, đang nghĩ gì thế? Không nghe bọn tớ nói chuyện à?

Tôi giật mình khi nghe anh nhắc tên và thành thật:

- Dạ, em đang nghĩ về chuyện anh bỏ làng… Mà này, anh rời làng, lên đây từ ngày ấy à? Mà anh “bị như vậy” thì… cháu gái kia là…? – tôi chỉ vào chiếc phản phía trong, nơi cháu gái đã đi vào đó nằm từ lâu.

Anh nhìn tôi, nhìn mọi người, giọng chùng xuống:

- Chuyện của tớ buồn lắm. Rồi chú Thuấn sẽ kể cho anh em nghe. Nay, tớ chỉ kể chuyện lên vùng đất này thôi. Tớ rời làng ra đi, mà không biết đi đâu. Giắt cục tiền trong người rồi cứ thế đi, đi miết. Cuối cùng tớ tới được vùng đất này. Thấy núi đồi mầu mỡ, khí hậu phù hợp, tớ quyết định dừng ở đây lập nghiệp. Tìm đến trưởng bản, tớ xin nhập khẩu rồi cùng bà con phát rẫy, làm nương. Cái thẻ thương binh, tớ cất vào một chỗ làm kỷ niệm, mình còn sức khỏe mà. Dựng lán để ở. Ban đầu, tớ cùng bà con lên nương trồng ngô trồng sắn. Sau thấy bà con quá vất vả, thiếu thốn đủ điều nên tớ mua chiếc xe ngựa, chở hàng hai chiều. Lúc xuôi, tớ chở lâm thổ sản bán cho bà con vùng thấp, khi về tớ đưa những hàng nhu yếu phẩm, tạp hóa bán lại cho đồng bào vùng cao. Thu nhập tạm được, cuộc sống cũng ổn ổn… Ơ kìa, mọi người uống rượu đi chứ! – anh Châu giục mọi người.

- Vâng ạ. Chúng em đang uống và nghe anh kể đấy ạ.

Anh Châu cầm chén rượu lên, chúng tôi cũng cầm theo. Cụng với anh xong, chúng tôi nhấp mỗi người một chút. Anh Châu dốc cả chén rượu vào miệng, nuốt đánh “ực”, đưa tay chùi mép, tiếp tục:

- Còn đứa con gái kia hả… – anh nhìn về phía cuối nhà sàn - cũng là tình cờ thôi… Một đêm, khi đang nằm trên những bao hàng trên xe, vừa ngắm trăng thảo nguyên vừa vu vơ hát cho đỡ buồn thì tự nhiên con ngựa dừng lại, hai chân trước tế lên trời, miệng hí vang. Biết có chuyện chẳng lành, tớ ngồi bật dậy. Vừa lúc, hai bóng đen xuất hiện. Tớ nghe rõ tiếng gậy rít qua đầu. Chỉ kịp né người, lăn một vòng và nhảy vội xuống đất thì đã bị bọn chúng lao tới, vụt tới tấp. Vậy là dù không muốn cũng phải "chiến" thôi. Tớ nép người vào vách núi thế thủ rồi bất ngờ tung hai cú đá vào hai bóng đen kia. Trong nháy mắt, bọn chúng đã nằm sõng xoài trên mặt đất. Định giáng tiếp mấy đòn nữa nhưng chúng gượng bò dậy, phủ phục dưới chân, xin tha chết. Thế là tớ cho qua. Các cụ dạy rồi, đánh kẻ chạy đi chứ ai đánh người chạy lại… Được tha, hai thằng chạy biến vào hẻm núi. Tớ nhảy lên xe đi tiếp, nhưng từ bấy giờ không nằm mà cũng chẳng thiết hò hát. Được một đoạn nữa, thấp thoáng trong ánh trăng suông tớ thấy có một bóng người vật vờ phía trước. Cho ngựa phi lên, tớ nghe rõ tiếng phụ nữ khóc thảm thiết. Đoán, chắc mấy thằng kia đã hại người phụ nữ này rồi nên tớ ghìm cương, cho ngựa chạy chậm rồi dừng xe, nhảy xuống. Té ra không phải ai trêu chọc, mà là cô ấy đang rơi vào hoàn cảnh của một người bất đắc chí. Cô ấy kể, bị một gã thanh niên trên thị trấn tán tỉnh, làm cho to bụng rồi biến mất. Bố mẹ biết chuyện, những tưởng sẽ thương mà tha, nhưng cả nhà đã nổi giận, từ mặt vì cô đã bôi tro trát trấu vào cả gia đình. Quẫn chí, cô ấy bỏ nhà ra đi mà không biết đi đâu. Tớ nghĩ, có lẽ đây là số phận. Trước, cô Tân đã cho một đứa con, nhưng ngày ấy tớ không can đảm nhận… Giờ, ông trời lại run rủi cho tớ một đứa con chăng. Tớ nói với cô ấy “Tôi là thương binh, không còn khả năng sinh con. Hiện tôi sống một mình, nếu cô không chê, thì về ở với tôi!?”. Cô ấy khóc òa “Anh đừng đùa cợt trên nỗi đau của người khác”. Tớ bảo “Không đùa đâu, tôi nói thật đấy”. Cô gái ngước mắt lên, mếu máo “Nếu được vậy thì em đội ơn anh lắm”. Thế là tớ đưa cô ấy về đây. Hôm sau làm mấy mâm cơm, giới thiệu với dân bản. Vài tháng sau, cô ấy sinh con. Bọn tớ quý con bé lắm. Tớ cùng cô ấy chăm chút con bé chu đáo nên nó khỏe, mau lớn và học hành khá thông minh. Có lẽ biết thân phận nên cô ấy lao động khá chăm chỉ và sống rất biết điều. Nhưng nhiều đêm, tớ thấy cô ấy trăn trở, trằn trọc không ngủ, hết ra ngồi cầu thang lại đi vơ vẩn quanh nhà. Và khi con bé được ba tuổi thì...

Một sáng ngủ dậy, không thấy cô ấy đâu, tớ gọi toáng lên rồi đi tìm suốt buổi mà không thấy. Cuối cùng, tớ tìm thấy một mảnh giấy viết nguệch ngoạc để trên cái giá kia. Đó là mấy dòng giã biệt. Cô ấy thú nhận không thể chịu đựng nổi sự thiếu thốn đàn ông, khi tuổi đời còn quá trẻ. Và nhờ tớ trông nom con bé, dịp nào thuận, sẽ về đón nó. Buồn đến nẫu cả ruột gan… Đến một ngày nào đó, cô ấy sẽ trở lại đây và sẽ đưa con bé đi. Đến lúc đó, không biết tớ sẽ sống ra sao. Không có con bé, cuộc đời tớ sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa... - Giọng anh bỗng ngắt quãng.

Tôi nhìn sang bên, anh em trong đoàn mắt ai nấy đều rưng rưng. Thấy chúng tôi trầm ngâm, sụt sùi, anh Châu cười:

- Thôi nào, các cán bộ. Là nói thế thôi, chứ buồn cũng chả làm được gì. Cái gì đến khắc đến, cưỡng lại cũng chả được. Có lẽ đó là số phận rồi. Thôi, lịch trình ngày mai của các cán bộ thế nào?

Tôi nhìn anh:

- Ngày mai chúng em về Hà Nội anh à. Biết anh ở đây rồi, em sẽ quay lại thăm bố con anh sau.

Anh cười thật dễ thương:

- Lúc nào chú quay lại đây, tính sau. Ngày mai, nhất định các cán bộ phải ở lại đây ăn với bố con tớ bữa cơm. Chẳng gì, tớ với chú Thuấn đây cũng gần bốn chục năm giờ mới gặp lại. Nhà có gà có rượu kia rồi, rau ở vườn, măng ở bụi, ta phải làm một bữa cho ra trò rồi các cán bộ hãy Hà Nội.

Tôi đưa mắt nhìn anh em. Tất cả cùng mỉm cười ra chiều đồng ý. Tôi nói để anh yên lòng:

- Thôi được rồi, chúng em sẽ ở lại một ngày để vui với bố con anh. Còn bây giờ, hơn ba giờ đêm rồi, ta chợp mắt đi một chút anh ạ.

Anh cười, bảo :

- Thế thì tốt rồi. Bây giờ thì ngủ nhá. Mấy cán bộ nằm đây!

Anh chỉ vào hai chiếc phản kê gần bếp lửa rồi đi vào góc nhà sàn lấy ra một chiếc chiếu, trải xuống và nằm cạnh chúng tôi. Chỉ lát sau, tôi đã nghe anh và anh em trong đoàn ngáy đều đều. Còn tôi, không sao ngủ được...

Rón rén trở dậy, tôi mở cửa đi ra cầu thang. Trăng giữa tháng đã chếch về phía tây, phủ xuống rừng già một thứ ánh sáng trắng lạnh. Lòng buồn buồn và chạnh nhớ tới những năm tháng trước đây ở Trường Sơn. Tôi nhớ những kỷ niệm khói lửa khốc liệt mà tôi cùng đồng đội, cùng anh Châu đã sống và chiến đấu... Tiếng gà rừng đã lảnh lót phía rừng xa. Hơi rừng làm cho mái đầu và chiếc áo tôi đang mặc đầm sương. Tôi chợt thấy những giọt nước từ đâu nhỏ xuống bàn tay, không biết là sương rừng hay nước mắt tôi rơi.

VN24/2016

Một thoáng chiều quê… - Thơ Huỳnh Thị Kim Cương

Một thoáng chiều quê… - Thơ Huỳnh Thị Kim Cương

Baovannghe.vn- Chiều về qua ngõ vắng/ Thấy nụ cười bâng khuâng
Triển khai Giải Báo chí toàn quốc phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực

Triển khai Giải Báo chí toàn quốc phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực

Baovannghe.vn - Chiều 25/3, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với Hội Nhà báo Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức cuộc họp Ban Chỉ đạo (BCĐ), Ban Tổ chức (BTC) Giải báo chí toàn quốc phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực lần thứ 5, giai đoạn 2024-2025.
Thăm bệnh - Thơ Vũ Ngọc Đan Linh

Thăm bệnh - Thơ Vũ Ngọc Đan Linh

Baovannghe.vn- Nằm lại trong bệnh viện/ nhìn hàm răng cha rỉ máu
Đôi mắt của sương mù. Tản văn của Gia Hân

Đôi mắt của sương mù. Tản văn của Gia Hân

Baovannghe.vn - Ngôi nhà không có cửa sổ, trong nhà tối âm âm, ánh sáng dường như vất vả lắm mới len được vào qua cửa chính...
Mãn nhãn với gần 1000 cổ phục Việt trong phim "Thám tử Kiên: Kỳ án không đầu"

Mãn nhãn với gần 1000 cổ phục Việt trong phim "Thám tử Kiên: Kỳ án không đầu"

Baovannghe.vn - Đạo diễn Victor Vũ và nhà sản xuất Đinh Ngọc Diệp quyết định may mới gần 1.000 bộ phục trang để phục vụ làm phim