Đọc Đoàn Văn Thanh qua từng chặng đường thơ, ngoài nhiều thể loại, tôi nhớ những bài thơ 4 câu, ngắn, gọn, với tứ thơ, câu thơ giàu sức nghĩ, sức gợi. Thơ 4 câu, Đoàn Văn Thanh có nhiều bài hay như: Vết sẹo, Hoa gạo, Xương rồng, Chiều Hồ Tây, Bà, Mẹ đi như giọt sương sa, Đời, Tự vấn, Thời, Thơm, Cõi vô thường... Trong bài thơ Vết sẹo tác giả bộc lộ tâm trạng của một người lính đã từng đi qua chiến tranh nhưng di chứng, vết thương một thời còn trở lại:
Hình như trời đất đang mùa chuyển
Nhưng nhức vần lên đếm đốt xương
Vết sẹo phập phồng do thời tiết
Chợt nhớ bạn xưa thuở chiến trường
Đoàn Văn Thanh khắc họa hình bóng người bà như trong thần thoại cổ tích mà vẫn gần gũi, thân thuộc: “Da mồi tóc phiêu diêu/ Gậy trúc tụng câu Kiều/ Quạch môi trầu tóm tém/ Dáng tiên cong bóng chiều” (Bà). Nhắc tới mình, nhắc tới người cha, người mẹ, Đoàn Văn Thanh đượm buồn, chắt lọc:
Cha đi từ thuở cơ hàn
Con côi cút, mẹ như đàn không dây
Thời gian trĩu mảnh vai gầy
Phận người càng mỏng càng dày
nắng mưa
(Mẹ đi như giọt sương sa)
![]() |
Tác giả Đoàn Ngọc Thanh |
Và đây là tình cảm của người ông với đứa cháu nhỏ: “Sáng ông đến thăm cháu/ Cháu nhoẻn cười thơm ông/ Đêm về trong giấc ngủ/ Còn thoảng hương má hồng” (Thơm). Trong bài Hoa gạo, Đoàn Văn Thanh có cách nhìn, cách cảm riêng: “Xuân chưa kịp khép cánh đào/ Đầu làng lửa gạo thắp vào tháng hai/ Nồng nàn trong nắng ban mai/ Cứ rừng rực tựa môi ai đợi chờ”. Đi giữa vùng đất trơ trọi, khắc nghiệt, tác giả nhận ra vẻ đẹp của hoa xương rồng: “Giữa khát khô cát trắng/ Chọn im lặng mà xanh/ Tự chuốt gai nhể nắng/ Giọt hoa bừng long lanh” (Xương rồng). Trong bài thơ tình Chiều Hồ Tây, lại có những mộng mơ, đắm đuối: “Hoàng hôn như mẻ vó/ Cất trăng Hồ Tây sa/ Tóc em thơm ngọn gió/ Neo cánh buồm hồn ta”. Đoàn Văn Thanh còn tạo nên bức tranh sau mưa, tất cả hiện ra với nhưng khắc họa đầy âm thanh màu sắc:
Sau mưa nắng rực hơn màu vẽ
Lích chích lời chim líu ríu cành
Sắc trời lá nõn, tơ non thế
Dòng sông vừa mặc áo thiên thanh
(Âm sắc)
Thơ Đoàn Văn Thanh suy nghĩ nhiều về sự đời. Đôi lúc, tác giả hỏi mình: “Nhiều lần định nghĩa mình/ Vẫn không ra lời giải/ Tóc cứ trắng vô tình/ Chỉ cỏ xanh mãi mãi...” (Tự vấn). Bài thơ Đời, tác giả viết kiệm lời, cô đọng, chỉ có bốn câu thơ mà hiện ra một bi kịch:
Cha mất sớm - đời bắt nạt
Mẹ mất sớm - đói cơm ăn
Vợ chồng mất nhau
Nhà xanh xao đầy gió
Trước thời cuộc trải bao thay đổi, biến thiên, tác giả tự rút ra kết luận: “Đừng tưởng tàn tro là hết lửa/ Hơi còn ưu ấp tự bên trong/ Gặp thời gió thuận tro lại đỏ/ Lửa lại bùng lên cháy hết lòng”. Quy luật sinh tử của của kiếp người, sự tuần hoàn biến động trong trời đất, qua bao sự buồn vui, nhà thơ tự nhủ mình:
Trải bao biến cải nhiễu nhương
Mong yên trong cõi vô thường
thế thôi
Bệ mặc bệ ngôi mặc ngôi
Bỏ nơi chen lấn tránh nơi ồn ào
(Cõi vô thường)
Trên chặng đường cầm bút, nhà thơ nào cũng có những cảm nhận về nghề viết, về thơ. Trong bài thơ Tâm chữ, Đoàn Văn Thanh suy nghĩ, đúc kết:
Văn chương bùa ngải gọi mời
Càng khao khát viết, càng vời vợi xa
Đầu trang trắng nõn tươi hoa
Cuối trang mưa đã nhập nhòa
mưa chan
Tứ như chim sếu gọi đàn
Nhập vào sợ mỏi, tách làn sợ rơi
Mộng mơ mây gió tận trời
Lại đau cuối đất, nỗi đời trần gian
Đó là lời tâm sự bộc bạch mà Đoàn Văn Thanh muốn dãi bày, chia sẻ. Ở đoạn thơ trên, Đoàn Văn Thanh tự khắc họa vài nét về mình: “Mộng mơ mây gió tận trời/ Lại đau cuối đất nỗi đời trần gian...”. Tác giả nhắc đến tứ thơ, một khâu, khởi đầu cần thiết bậc nhất trong sáng tác: “Tứ như chim sếu gọi đàn/ Nhập vào sợ mỏi, tách làn sợ rơi”...
Một bài thơ muốn neo đậu trong lòng bạn đọc phải có ý tưởng, phải có tứ. Tứ thơ giống như cái mốc trên đường đi cho người lữ hành tìm đến. Ở thể loại thơ tự do, thơ không vần người viết có thể mê mải, lang thang nhưng ở những bài thơ 4 câu, ba câu, khi đã có tứ rồi người làm thơ không được phép dàn trải, bởi phía rất gần là đích phải đến. Càng về giai đoạn sau, Đoàn Văn Thanh tạo ý, lập tứ chắc. Đó là điều rất cần thiết với một nhà thơ để ý thơ, câu thơ thành vệt sáng trong tâm tưởng người đọc...
Nguồn Văn nghệ số 46/2022