Về sau tôi được biết, đây là chuyến đi tìm đồng đội thứ 41 của ông Đồng. Công việc này đã gắn bó với ông suốt 15 năm, không hề gián đoạn.
“Chuyến này của chúng tôi thành công. Khảo sát bốn chỗ thì hai chỗ thấy hài cốt, trong đó có một hầm bộ đội hình chữ nhật 1m8x 3m bị lấp và có vết lún, khai quật thấy có xương và đất đen. Vậy là ở tọa độ này (chân cao điểm M2) từ 2019 đến nay đã phát hiện 4 hầm tương tự. Đồng thời, khi khảo sát đồi bằng lăng ở tọa độ YA 92.92 lần thứ 5, chúng tôi đã xác định được vị trí đội phẫu C23 và nghĩa trang đội phẫu”. Ông Đồng bắt đầu câu chuyện. Người cựu binh nhỏ thó ấy năm nay đã ngoài 70 và từng bị tai biến mấy năm trước.
![]() |
| Ông Đồng và Thiếu tướng Lộ Khắc Tâm trong lễ truy điệu các liệt sỹ hy sinh ở cao điểm 995 Sa Thầy (Kon Tum). Ảnh: Trương Đức Bình. |
“Chúng tôi đi lần này cùng bộ đội Sa Thầy, tất cả có mười người, ở lại trong núi Chư Tan Kra (huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum) gần một tuần”. Ông Đồng tiếp tục câu chuyện bằng một chất giọng đều đều, giống như ông đang kể một chuyện hết sức bình thường. Song trên thực tế, như lời Thiếu tướng Lộ Khắc Tâm từng chia sẻ: vào rừng tìm mộ không đơn giản, vì nguy cơ khắp nơi, ngoài bom mìn còn sót lại, bẫy thú cũng là một mối nguy, rồi rắn lục nhiều vô số kể, rừng thiêng nước độc, những người lính thời bình vẫn phải dùng cách thức như thời chiến là mắc võng ngủ lại qua đêm vì mỗi chuyến đi rừng ít thì một tuần, nhiều có khi lên đến một tháng, họ không có điều kiện sáng đi tối về.
Ông Hồ Đại Đồng bắt đầu công việc kiếm tìm đồng đội từ năm 2009, phạm vi tìm kiếm phần nhiều quanh Chư Tan Kra, nơi mà hơn 50 năm trước, vào ngày 26.3.1968, gần 200 người lính Hà Nội thuộc Trung đoàn 209, còn có tên gọi là Trung đoàn mũ sắt đã chiến đấu anh dũng và hi sinh, máu thấm đỏ cao điểm 995 Sa Thầy, Kon Tum. “Sáng ngày 26 tháng 3 năm ấy/ anh nuôi bày la liệt cơm nắm/ chúng mày ơi, đâu hết cả rồi”?
Là một trong số ít ỏi những người của đoàn quân quả cảm ấy trở về, ông Đồng cùng với những đồng đội của mình: ông Chúc, ông Ngọc, ông Lục, ông Vĩnh, ông Linh… đã kết thành một đội đi tìm đồng đội và âm thầm hoạt động từ bấy đến giờ.
“Cô hỏi kinh phí đâu để đi ấy à? Từ kế hoạch tìm kiếm đến kinh phí chúng tôi đều đóng góp với nhau, ngoài ra, các đơn vị quân đội và bạn bè cũng hỗ trợ một phần. Chúng tôi bảo nhau còn sức, còn tiền, còn đi… Chúng tôi tìm mộ theo các chiến dịch, các trận đánh bằng phương pháp thực chứng khoa học và tập hợp thông tin của nhiều nguồn. Chúng tôi nhận thấy, liệt sĩ dù hy sinh ở đâu, bao giờ cũng để lại những dấu hiệu để ta có thể tìm đến. Các thông tin liên quan liệt sĩ được lưu trong nỗi nhớ của nhân dân, đồng đội; trong sử sách của các đơn vị; trong trích lục liệt sĩ và trong các báo cáo chiến trường của đối phương. Trên mặt đất là các vết tích hầm hào bom đạn; dưới lòng đất là các di vật, hài cốt, di hài di cốt. Ở chiến trường Tây Nguyên, do chiến tranh nối tiếp kéo dài, nhiều đơn vị và nhân chứng nay không còn nữa, theo thời gian địa hình địa vật cũng nhiều thay đổi, các thông tin, dấu hiệu liên quan đến liệt sĩ ngày càng hiếm và mong manh... Tuy vậy, những thông tin trong trích lục liệt sĩ của ta, trong báo cáo chiến trường của địch vẫn còn nguyên giá trị chỉ dẫn”.
Cũng theo tiết lộ của ông Đồng, ngay từ những năm đầu tiên, họ đã học cách sử dụng báo cáo chiến trường của quân đội Mỹ, dùng bản đồ quân sự, bản đồ vệ tinh, địa bàn, thiết bị định vị GPS kết hợp với trí nhớ để tìm nơi đồng đội hi sinh. Tuy nhiên người Mỹ, có thể vì mục đích an ninh, đã không để lưới tọa độ vệ tinh trùng khớp với lưới tọa độ bản đồ quân sự; đồng thời lưới vệ tinh có thể dịch chuyển và có sai số khác nhau giữa các vùng miền. Vì vậy, ông Đồng mất nguyên 7 năm để có thể khớp lưới tọa độ của bản đồ quân sự Mỹ và lưới tọa độ vệ tinh Google Earth.
Nhờ phương pháp này, họ đã cùng bộ đội tỉnh Kon Tum lần lượt tìm được bảy khu mộ, hầu hết là mộ tập thể: 16, 20, 81 rồi 15, 34, 43, 14 liệt sĩ…
15 năm đằng đẵng, những cựu chiến binh của Trung đoàn 209, sư đoàn 1 nhiều lần bị người ta gọi là “điên”, nhiều lần bị nghi ngờ “ẩn giấu âm mưu” gì đó khi cứ cùi cũi bỏ tiền, bỏ sức, ngược xuôi trèo đèo lội suối hết chuyến này đến chuyến khác để đồng đội có thêm người được hoàn thổ.
“Cô biết không, để tôi có thể sống và ngồi đây hôm nay, ba đồng đội đã chết thay tôi từ dạo ấy. Đầu tiên là đại đội trưởng Khải, hi sinh ngày 29/4/1968. Khi tôi đang đứng ở vị trí quan sát điểm nổ của đạn pháo để điều chỉnh tầm hướng bắn, anh ấy từ dưới hầm nhảy lên, đẩy tôi ra bên cạnh, ngay lúc đó anh bị trúng mảnh pháo và hi sinh trên đường về đội phẫu. Lần thứ hai, ngày 6/6/1969, tôi lên cơn sốt rét 40 độ 5, trung đội phó Vĩnh thay tôi chỉ huy trung đội cối 82, trận ấy cả trung đội không ai về. Lần thứ ba, năm 1971 giữ chốt ở Campuchia, buổi sáng tôi được lệnh rút về nhận nhiệm vụ mới, người thay vị trí của tôi là Ngọc. Tôi vừa rời trận địa khoảng 200m thì máy bay thả bom đúng hầm của Ngọc ”.
![]() |
| Ông Đồng (bên phải) và ông Chu Đình Dương (CCB, đại tá nguyên chính trị viên huyện đội Sa Thầy) khảo sát tại toạ độ YA 997.875 thôn 1 xã Ya Xiết, nơi ngày 15/6/1968 quân Mỹ phát hiện mộ có 3 thi thể bộ đội. Ảnh: Trương Đức Bình |
Những ký ức ám ảnh của cuộc chiến theo ông Đồng đến tận những năm dài sau chiến tranh. Nhiều đêm, trong giấc mơ ông vẫn bị tiếng bom đánh thức. Có khi đang ngủ, mơ thấy tiếng bom, cơ thể làm ra hành động lăn xuống hầm như một phản xạ tự nhiên, tỉnh dậy mới biết hóa ra mình lăn từ trên giường xuống đất.
41 chuyến đi rừng, ông Đồng bảo, khi đã xác định được tọa độ thì một mét đất cũng không được bỏ qua. Bởi, rất có thể ở dưới lớp lá rừng dày đặc kia là những gì còn sót lại của một người lính đã ngã xuống năm nào. “Tay bới nhẹ nhàng kẻo đất đau thêm/ những người lính phát từng bụi cỏ/ bật theo rễ từng mảnh nylon, đế giày cháy dở/ vết đạn thủng đầu mũ sắt/ có người hy sinh trong thế tiến công” (thơ Lữ Mai).
41 chuyến đi ấy, các cựu chiến binh đã quen với những bữa cơm chỉ có cá khô, nước chè và kẹo lạc. Rất nhiều bữa không có rau, bởi khu rừng mà họ tìm kiếm là rừng trọc. Rất nhiều mùa khô đường mù bụi đỏ. Rất nhiều mùa mưa bùn quánh bước chân. Sở dĩ bước chân lính già chưa từng dừng lại, vì họ biết, nếu không nhanh lên, gấp lên, thì có thể một mai tại các vùng đất bazan nhiều axit và đất đá vôi, ngay cả những vết đen của máu thịt đồng đội cũng bị phân hủy hết. “Chỉ còn lau trắng quệt ngang nước mắt”.
Ông Đồng kể về cơ duyên dẫn mình đến với công việc đặc biệt này: “40 năm sau trận Chư Tan Kra, đồng đội Nguyễn Văn Vĩnh tìm ra tôi khi đang là Giám đốc công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp Lai Châu. Chẳng ai phải vận động ai, chúng tôi đã có một đội hình cựu chiến binh tình nguyện đi tìm đồng đội. Đội hình lúc giảm lúc tăng, nhưng nhóm chúng tôi chưa bao giờ bỏ cuộc”.
![]() |
| Ông Đồng (bên phải) và ông Chu Đình Dương (CCB, đại tá nguyên chính trị viên huyện đội Sa Thầy) khảo sát tại toạ độ YA 997.875 thôn 1 xã Ya Xiết, nơi ngày 15/6/1968 quân Mỹ phát hiện mộ có 3 thi thể bộ đội. Ảnh: Trương Đức Bình |
| Chính câu chuyện đi tìm đồng đội của các cựu binh già đã trở thành nguồn cảm hứng trực tiếp để nhà thơ Lữ Mai viết ra trường ca “Chư Tan Kra mây trắng”, trong đó có những đoạn: “tiếng bom cũ xô những người lính già/ suối đêm róc rách như hờn trách/ bảy mươi ngại gì sông suối núi đèo/ sẽ khai quật hầm hào/ sẽ biết trước muỗi vắt nhiều vô kể/ sẽ chằng chịt ngã ba không ở trong bản đồ/ còn sức còn đi/ còn thương còn nghĩ”. |
Trong câu chuyện ông nhiều lần nhấn mạnh, việc đi tìm đồng đội này có hy vọng rồi, vì ngày càng có nhiều người trẻ tham gia. Những chú lính trẻ địa phương, chuyến ít thì 5 người, chuyến nhiều thì 10 người, chả ai dặn mà cứ thấy “bố Đồng, bố Vĩnh” thì xăng xái vác hộ ba lô, đồ nghề. Có lần ông Đồng đuối sức do chứng suy giãn tĩnh mạch trở nặng, chú lính trẻ đã cõng ông xuyên rừng cả chặng đường về. Tiếng súng chiến tranh đã lùi xa, hai thế hệ lính già lính trẻ vì việc tìm mộ mà lại cùng nhau thức giữa rừng: “mưa tuôn kéo từ hướng Chư Mom Ray, trong lúc chờ ngớt hạt, lính già ho lụ sụ, người bệnh kinh niên, người từng tai biến, luân phiên đốt lửa, mắc võng “chuồng bò”, miệng dặn dò lính trẻ, cấm tắm suối đêm, thay phiên lấy củi, mờ sáng rét mà không chịu nổi, dậy chia nhau bánh chả kẹo vừng, tất cả trong ba lô của bố”…
Một người trẻ khác, giúp đỡ rất lớn cho việc tìm kiếm mộ liệt sĩ của nhóm cựu chiến binh là anh Lâm Hồng Tiên. Năm 2018, anh Tiên đã chuyển cho ông Đồng hàng chục nghìn dữ liệu đã được giải mật của quân đội Mỹ và các tọa độ có hơn 10 nghìn liệt sĩ ở Quảng Trị, Huế, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ cùng trích lục liệt sĩ của các trung đoàn thuộc Sư đoàn 1. Từ những chỉ dẫn ấy, nhóm đi tìm đồng đội đã tổ chức thành công nhiều chuyến tìm kiếm mà trước đó tưởng là vô vọng.
Cảm nghĩa công việc này, nhiều cựu chiến binh Mỹ cũng tình nguyện đi cùng nhóm. Họ là Deryle Perryman, cựu lính pháo binh 175 ly, là Steve Edmunds ra khỏi cuộc chiến nhưng chưa hề bước ra khỏi những ám ảnh, là L’Loyd Bedik mỗi lần nghĩ lại đều thấy mình không sống nổi kiếp người… “Những người lính hai bên chiến tuyến, xưa nã đạn vào nhau, giao tranh giành giật từng ụ pháo, nay tăng võng kề bên, bỏ súng xuống, mặt mũi lơ ngơ, sững sờ đau đớn, bỏ súng xuống, cùng thắp hương lên từng nấm mộ, chợt vỡ lẽ chúng ta là bạn” (thơ Lữ Mai).
Ông Đồng bảo tôi, 41 chưa phải là chuyến đi cuối cùng. Cựu binh đều đã già, bản thân ông nhớ nhớ quên quên do ảnh hưởng của trận tai biến, nhưng bởi vì biết đồng đội mình còn quạnh hiu nằm đó, về chưa ấm chỗ, lại nghèn nghẹn dặn nhau: về nghỉ ít bữa rồi lại đi!